Chủ động ứng phó với thách thức nguồn nước
Ngày 01/12/2023, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quyết định số 2846/QĐ-BKHCN phê duyệt Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 "Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước", mã số KC.14/21-30. Mục tiêu của Chương trình là cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để hỗ trợ xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách; đồng thời nghiên cứu, phát triển và chuyển giao các công nghệ tiên tiến phục vụ quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn nước, đáp ứng nhu cầu dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Chương trình đặt ra nhiều chỉ tiêu cụ thể: 60% số nhiệm vụ có kết quả được ứng dụng hoặc thử nghiệm thành công; 30% nhiệm vụ có đơn đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, trong đó 10% được cấp bằng độc quyền sáng chế hoặc giải pháp hữu ích; 20% nhiệm vụ có doanh nghiệp tham gia phối hợp triển khai.
Chương trình đặt ra nhiều chỉ tiêu cụ thể: 60% số nhiệm vụ có kết quả được ứng dụng hoặc thử nghiệm thành công.
Theo GS.TS Nguyễn Văn Tỉnh, Chủ nhiệm Chương trình, các nội dung trọng tâm sẽ tập trung vào công nghệ đánh giá, dự báo số lượng, chất lượng và nhu cầu sử dụng nước; công nghệ tích trữ, xử lý, lọc nước; vận hành thông minh hệ thống cấp, tưới, thoát nước; cũng như các giải pháp quan trắc, giám sát và kiểm soát chất lượng nước, nguồn thải gây ô nhiễm.
Thực tế, Việt Nam có hơn 7.500 hồ, đập với tổng dung tích trữ chủ động khoảng 70 tỷ m³ nước. Tuy nhiên, nguồn nước mặt phân bố không đều theo không gian và thời gian, lại phụ thuộc phần lớn vào nguồn nước xuyên biên giới. Dự báo đến năm 2045, nhu cầu nước của cả nước tăng khoảng 30% so với hiện nay, trong khi nhiều lưu vực sông đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cùng với đó, tình trạng công trình khai thác nước xuống cấp, hiệu quả sử dụng nước còn thấp, quản trị nguồn nước chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
Trước bối cảnh đó, việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước trở thành yêu cầu cấp thiết, góp phần hiện thực hóa Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trong những năm qua, Nhà nước đã đầu tư và có nhiều giải pháp để bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra như nguồn nước mặt của nước ta phân bổ không đều cả về không gian và thời gian, phụ thuộc nhiều vào nguồn nước xuyên biên giới. Thách thức về gia tăng nguồn nghiên cứu công nghệ để gia tăng nguồn nước, cũng như sử dụng nước hiệu quả và tiết kiệm cũng là một bài toán lớn đặt ra trong giai đoạn tới, do nhu cầu nước dự kiến năm 2045 là 130 tỷ m3, tăng khoảng 30% so với nhu cầu thực tế hiện nay. Bên cạnh đó, nguồn nước ở nhiều khu đang bị ô nhiễm trầm trọng, công trình khai thác nguồn nước được xây dựng từ lâu đã xuống cấp, khó thay đổi công năng để đáp ứng cho sản xuất quy mô lớn, quản trị nước còn yếu, hiệu quả khai thác, sử dụng nước thấp…
Tăng cường công nghệ cho an toàn hồ đập và phát triển bền vững
Song song với vấn đề nguồn nước, công tác bảo đảm an toàn hồ đập cũng đang đặt ra nhiều thách thức. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Tính, Phó Giám đốc Phân hiệu Trường Đại học Thủy lợi, phần lớn các hồ chứa ở Việt Nam được xây dựng từ những năm 1970 - 1980, nay đã xuống cấp, hư hỏng, thiếu kinh phí bảo trì, trong khi năng lực cán bộ quản lý, vận hành còn hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới nhằm nâng cao khả năng chống thấm cho đập đất, xây dựng quy trình ứng phó sự cố khẩn cấp, cũng như triển khai hệ thống quan trắc và điều hành hồ chứa thông minh là rất cần thiết. Đồng thời, cần hoàn thiện quy trình đánh giá an toàn hồ đập kết hợp chuyển đổi số, xây dựng hệ thống thông tin công trình hiện đại, liên thông và cập nhật kịp thời.
Tại đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), khu vực trọng điểm sản xuất nông nghiệp của cả nước, thách thức về an ninh nguồn nước càng lớn hơn do tác động kép của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sụt lún đất. Mỗi năm khu vực này sụt lún từ 0,5–3 m, riêng vùng ven biển lún trung bình 1,5–3,5 cm/năm. Dự báo đến năm 2050, địa hình một số tỉnh có thể ở mức –0,5 đến –1 m, và tới năm 2100 là –1 đến –2 m. Lượng mưa trong tương lai được dự báo giảm từ 1–10%, khiến lượng nước về ĐBSCL suy giảm, xâm nhập mặn sâu hơn, ngập lụt diện rộng và xói lở bờ biển gia tăng, mất hàng trăm ha đất mỗi năm.
Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trước thực tế đó, các chuyên gia cho rằng phát triển ĐBSCL phải theo hướng "thích nghi có kiểm soát", nghĩa là chủ động tạo ra chế độ nước hợp lý trên nền tự nhiên, giảm rủi ro và sự bấp bênh trong sản xuất, nhất là nông nghiệp. Đây cũng là hướng đi để khai thác tối ưu các yếu tố tự nhiên như đất, nước, ánh sáng, phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ chất lượng cao. Bên cạnh đó, cần lồng ghép các vấn đề trọng yếu như bảo đảm an ninh nguồn nước, ngập úng, suy thoái đồng bằng vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của vùng và quốc gia; đồng thời xây dựng quy hoạch dài hạn cho các vấn đề về nước, phòng chống ngập lụt, bảo vệ hệ sinh thái ngập mặn ven biển.
Chương trình KC.14/21-30 là bước đi quan trọng nhằm gắn kết khoa học và công nghệ với quản lý tài nguyên nước và an toàn công trình thủy lợi. Việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ tiên tiến không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản trị nguồn nước, bảo đảm an toàn hồ đập mà còn góp phần chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.
Nguồn: https://mst.gov.vn/ung-dung-khcn-dam-bao-an-ninh-nguon-nuoc-va-an-toan-ho-dap-197251113110432003.htm






Bình luận (0)