Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp của người lao động thu nhập thấp theo quy định của pháp luật hiện nay

TCCS - Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến người lao động có thu nhập thấp, nổi bật là mô hình nhà ở xã hội nhằm hỗ trợ người lao động ổn định cuộc sống, góp phần bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề trên vẫn còn những hạn chế, bất cập, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản05/10/2025

Về quyền có nơi ở hợp pháp của người lao động thu nhập thấp  

Nơi ở và quyền có nơi ở hợp pháp là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của xã hội. Nơi ở hợp pháp là địa điểm được cá nhân sử dụng để sinh sống, thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp, được pháp luật công nhận. Theo Điều 2 Luật Cư trú năm 2020, chỗ ở hợp pháp bao gồm: nhà ở, tàu, thuyền, phương tiện khác có khả năng di chuyển hoặc các loại chỗ ở khác theo quy định của pháp luật. Trong đó, nhà ở là loại hình phổ biến, mang tính ổn định lâu dài, gắn liền với nhiều chính sách pháp lý về quy hoạch đất đai, tài chính, đầu tư và cư trú. Có thể hiểu, nơi ở hợp pháp là không gian xác định về mặt địa lý, được sử dụng cho mục đích sinh sống, mà cá nhân có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp đối với không gian đó theo quy định của pháp luật.

Dự án nhà ở xã hội Kim Chung, thành phố Hà Nội_Ảnh: tuoitre.vn

Quyền có nơi ở hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp năm 2013 và Luật Nhà ở năm 2023 ghi nhận, bảo đảm thực thi. Điều 22, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp”. Quy định này đã khẳng định rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc thừa nhận quyền có nơi ở hợp pháp, theo đó người dân sẽ có các quyền để sở hữu, sử dụng và quản lý nơi ở hợp pháp của mình. Quy định chung tại Hiến pháp đã góp phần xây dựng, triển khai, thực thi các văn bản luật, các chính sách về nơi ở hợp pháp từ đó bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực cư trú, nhà ở.

Quyền có nơi ở hợp pháp bảo đảm cho mỗi cá nhân, không phân biệt địa vị xã hội hay mức thu nhập, được tự do lựa chọn, xác lập và duy trì chỗ ở hợp pháp phù hợp với nhu cầu sinh hoạt và điều kiện kinh tế - xã hội của mình. Đối với người lao động thu nhập thấp, đây là quyền thiết yếu, gắn liền trực tiếp với chất lượng cuộc sống và khả năng tham gia các hoạt động xã hội. Theo Nghị định số 30/2025/NĐ-CP, người lao động có thu nhập thấp là người lao động thuộc hộ gia đình (không bao gồm hộ nghèo, hộ cận nghèo) có mức thu nhập và khả năng chi trả nhà ở hạn chế, được xác định theo tiêu chí thu nhập áp dụng cho từng khu vực(1). Cụ thể, tại khu vực nông thôn, mức thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.250.000 đồng trở xuống; tại khu vực thành thị, mức thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 3.000.000 đồng trở xuống.

Người lao động có thu nhập thấp thường có nguồn tài chính không ổn định và khả năng tích lũy thấp, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp cận các loại hình nhà ở thương mại hoặc nhà ở đạt chuẩn. Điều này kéo theo nhiều trở ngại trong đời sống hằng ngày, đặc biệt là trong việc thực hiện các quyền dân sự liên quan đến nơi ở, điều kiện sinh hoạt và thụ hưởng phúc lợi xã hội. Nhóm đối tượng này thường phải thuê nhà ở tạm bợ, diện tích chật hẹp, điều kiện vệ sinh và an toàn chưa bảo đảm; dễ bị tác động tiêu cực khi giá thuê nhà tăng hoặc khi bị di dời, giải tỏa. Thực trạng đó cho thấy tính cấp thiết của việc ban hành và triển khai hiệu quả chính sách nhà ở cùng các biện pháp hỗ trợ phù hợp, nhằm bảo đảm thực chất quyền có nơi ở hợp pháp cho người lao động có thu nhập thấp.

Quyền có nơi ở của người lao động thu nhập thấp là quyền được pháp luật công nhận và bảo đảm cho người lao động có thu nhập thấp được lựa chọn, xác lập và duy trì chỗ ở hợp pháp, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu sinh hoạt của bản thân. Từ cách tiếp cận này, quyền có nơi ở của người lao động có thu nhập thấp bao gồm các yếu tố cơ bản như: được tiếp cận các loại hình nhà ở đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu về diện tích, chất lượng và an toàn; được tham gia giao dịch thuê, mua, thuê mua nhà ở theo quy định pháp luật; được bảo vệ khỏi việc xâm phạm, cưỡng chế hoặc di dời trái pháp luật.

Thực trạng pháp luật về quyền có nơi ở hợp pháp của người lao động thu nhập thấp

Theo quy định tại Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 là văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất, đặt nền tảng cho việc ghi nhận và bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp của công dân. Quyền này được thể hiện trên hai phương diện: quyền hiến định và cơ chế bảo đảm thực hiện quyền.

Về quyền, Điều 22 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp; mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở”. Quy định này không chỉ xác lập quyền có nơi ở như một quyền cơ bản của công dân, mà còn đặt ra nguyên tắc bảo vệ không gian sống của mọi cá nhân khỏi mọi hành vi xâm nhập trái pháp luật, trừ trường hợp được pháp luật cho phép theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt. Nội dung này thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta về việc coi nơi ở là không gian riêng tư, gắn liền với đời sống vật chất và tinh thần của con người, là yếu tố cấu thành quyền con người và quyền công dân được pháp luật bảo hộ. Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý để các đạo luật chuyên ngành, như Luật Cư trú, Luật Nhà ở, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các điều kiện, thẩm quyền và thủ tục khi khám xét, kiểm tra hoặc xử lý liên quan đến chỗ ở, nhằm bảo đảm tính bất khả xâm phạm và sự an toàn cho đời sống của cá nhân và hộ gia đình.

Về bảo đảm quyền, Điều 59 Hiến pháp năm 2023 quy định: “Nhà nước có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở”. Nhà ở là hình thức nơi ở phổ biến, cụ thể nhất đối với công dân và là nơi công dân trực tiếp có chỗ ở và thực hiện quyền có nơi ở một cách lâu dài và ổn định hơn hết các mô hình nơi ở khác(2). Từ nội dung Điều 59 cho thấy, Nhà nước định hướng phát triển nhà ở theo hai hướng song song. Thứ nhất, tạo môi trường thuận lợi để thị trường nhà ở phát triển lành mạnh, đáp ứng nhu cầu của đại bộ phận người dân theo cơ chế thị trường. Thứ hai, ưu tiên hỗ trợ nhóm yếu thế thông qua việc phát triển quỹ nhà ở xã hội, áp dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, đất đai, thuế… nhằm giúp các đối tượng chính sách, người nghèo và người lao động có thu nhập thấp tiếp cận điều kiện sống tối thiểu, ổn định và phù hợp với khả năng chi trả. Đặc biệt, khoản 2 Điều 59 tiếp tục nhấn mạnh nguyên tắc bình đẳng về cơ hội thụ hưởng phúc lợi xã hội: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến người lao động có thu nhập thấp, nhưng xét về bản chất, nhóm đối tượng này thuộc phạm vi “người gặp hoàn cảnh khó khăn” khi tiếp cận nhà ở đạt chuẩn. Do đó, đây là cơ sở hiến định để các đạo luật chuyên ngành như Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Xây dựng cụ thể hóa thành các chính sách hỗ trợ phù hợp. Từ những quy định của Hiến pháp, có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã đặt ra định hướng nhất quán chung: phát triển nhà ở không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội mà còn là công cụ bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đối với người lao động có thu nhập thấp, các quy định này vừa tạo nền tảng pháp lý, vừa thể hiện cam kết chính trị của Nhà nước trong việc bảo đảm cơ hội tiếp cận chỗ ở hợp pháp, phù hợp với khả năng tài chính và nhu cầu sinh hoạt, qua đó góp phần ổn định đời sống, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thúc đẩy an sinh xã hội.

Theo quy định của pháp luật dân sự, từ việc Hiến pháp thừa nhận quyền có nhà ở hợp pháp của người dân đã hình thành nên nguyên tắc và cách thức hiến định về quyền của công dân cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền này, mà trước tiên là cụ thể hóa quyền bằng Luật Nhà ở. Luật Nhà ở năm 2023 ra đời đã thể hiện nhiều quy định về bảo đảm nơi ở hợp pháp cho người lao động có thu nhập thấp, đặc biệt là qua mô hình nhà ở xã hội - mô hình nhà ở dành người lao động có thu nhập thấp - nhằm hỗ trợ họ an cư, ổn định cuộc sống và góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Về chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội, Điều 77 và Điều 78 Luật Nhà ở năm 2023 quy định việc hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi của Nhà nước thông qua ngân hàng chính sách xã hội hoặc các tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định để có thể mua, thuê mua nhà ở xã hội hoặc tự xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở. Đây là chính sách tài chính quan trọng nhằm giúp các đối tượng này tiếp cận nguồn vốn với lãi suất thấp, thời hạn vay dài hơn và điều kiện vay linh hoạt hơn so với thị trường. Việc hỗ trợ vay vốn ưu đãi không chỉ tháo gỡ rào cản lớn nhất là khả năng chi trả ban đầu khi mua nhà ở xã hội, mà còn tạo cơ hội để người lao động thu nhập thấp và các nhóm đối tượng thụ hưởng khác hiện thực hóa quyền sở hữu nhà ở. Chính sách này góp phần cụ thể hóa quy định tại Điều 59 Hiến pháp năm 2013 về việc Nhà nước tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở, đồng thời thể hiện cam kết của Nhà nước trong bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp của công dân, đặc biệt là đối với các nhóm người lao động có thu nhập thấp và các nhóm đối tượng khó khăn khác.

Dự án nhà ở xã hội công đoàn thể hiện sự quan tâm đến đời sống công nhân, người lao động, thực hiện mục tiêu phát triển nhà ở xã hội, bảo đảm an sinh xã hội_Ảnh: bacninh.dcs.vn

Về hình thức sở hữu nơi ở, Luật Nhà ở năm 2023 và Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, ngày 26-7-2024, “Quy định chi tiết một số điều của Luật Nhà ở về phát triển và quản lý nhà ở xã hội” tập trung phát triển loại hình nhà ở xã hội cho thuê, thay vì bán, để giảm gánh nặng tài chính cho người thu nhập thấp. Đây là điểm mới mang tính đột phá thể hiện rõ sự bảo đảm của Nhà nước về quyền có nơi ở hợp pháp. Xuất phát từ đặc điểm người lao động có thu nhập thấp gặp khó khăn về tài chính, nên việc sở hữu nhà ở xã hội làm nơi ở hợp pháp còn gặp nhiều thách thức, do vậy việc cho thuê nhà ở xã hội sẽ góp phần tăng cơ hội sở hữu nơi ở hợp pháp cho người lao động có thu nhập thấp. Các cơ chế hỗ trợ và quy định về thuê nhà ở xã hội đã góp phần bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp của người lao động có thu nhập thấp.

Nhìn chung, pháp luật nước ta đã hình thành hệ thống pháp lý tương đối đầy đủ về bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp của người lao động thu nhập thấp. Khung pháp lý này bao gồm cả nguyên tắc hiến định, quy định của luật và các văn bản dưới luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ(3). Đồng thời, pháp luật đã ghi nhận và triển khai các chính sách ưu đãi về vốn, đặc biệt là cơ chế cho vay ưu đãi thông qua ngân hàng chính sách xã hội hoặc tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định, giúp người lao động có thu nhập thấp tiếp cận nguồn tài chính phù hợp để mua, thuê hoặc thuê mua nhà ở xã hội. Ngoài ra, các quy định pháp luật đã thiết lập chính sách đa dạng hóa hình thức sở hữu nơi ở, bao gồm sở hữu trực tiếp, thuê và thuê mua, qua đó đáp ứng linh hoạt nhu cầu và khả năng chi trả của người lao động thu nhập thấp.

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp của người lao động thu nhập thấp còn tồn tại một số hạn chế, bất cập sau:

Thứ nhất, quy định pháp luật hiện hành về việc xác định “người lao động có thu nhập thấp” mới chỉ dừng ở dạng liệt kê các nhóm đối tượng cụ thể, chưa xây dựng một định nghĩa chung mang tính khái quát và thống nhất. Cách tiếp cận này dẫn đến sự thiếu rõ ràng trong việc xác định phạm vi áp dụng chính sách, đặc biệt khi triển khai trên thực tế. Bên cạnh đó, Điều 76 Luật Nhà ở năm 2023 vẫn chưa đưa “người lao động có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn” vào diện đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội. Trên thực tế, nhóm đối tượng này cũng đang gặp khó khăn đáng kể về chỗ ở, nhất là trong bối cảnh chênh lệch thu nhập và điều kiện sống giữa khu vực thành thị và nông thôn vẫn còn lớn.

Thứ hai, công tác tuyên truyền, nhận thức pháp luật về bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp cho người lao động thu nhập thấp chưa được đẩy mạnh. Điều này dẫn đến thực trạng một bộ phận người lao động có thu nhập thấp nhận thức chưa đầy đủ, chưa đúng, chưa kịp thời về các chính sách hỗ trợ nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội. Do đó, nhóm đối tượng này còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận hồ sơ thụ hưởng các chính sách bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp. Bên cạnh đó, cũng tồn tại một số đối tượng lợi dụng chính sách hỗ trợ cho người lao động có thu nhập thấp để đầu cơ, sở hữu chỗ ở không đúng đối tượng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền sở hữu chỗ ở hợp pháp của các cá nhân, người lao động có thu nhập thấp.

Thứ ba, trong quá trình giải ngân nguồn vốn thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ về vốn trong đầu tư xây dựng và hỗ trợ mua, thuê, thu mua nhà ở xã hội còn gặp nhiều hạn chế. Mặc dù Nghị định số 100/2024/NĐ-CP đã quy định về việc hỗ trợ vốn đối với nhà ở xã hội, song có thể thấy quy định này còn nhiều bất cập gây khó khăn đối với chủ đầu tư. Trình tự thủ tục đầu tư, xây dựng, mua, bán nhà ở xã hội vẫn còn kéo dài, thậm chí phức tạp hơn nhà ở thương mại. Các chính sách ưu đãi cho chủ đầu tư dự án ban hành chưa hấp dẫn, chưa đi vào thực chất nên khó thu hút, khuyến khích chủ đầu tư.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền có nơi ở hợp pháp của người lao động thu nhập thấp

Để khắc phục những vấn đề còn hạn chế, bất cập cũng như góp phần thúc đẩy phát triển nhà ở nhằm đáp ứng kịp thời về nhu cầu nhà ở của người lao động có thu nhập thấp, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần xây dựng định nghĩa mang tính khái quát và thống nhất về “người lao động có thu nhập thấp” trong Luật Nhà ở và các văn bản liên quan, thay cho cách tiếp cận hiện nay chủ yếu ở dạng liệt kê. Định nghĩa này nên được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí rõ ràng: mức thu nhập bình quân đầu người, khả năng chi trả nhà ở, điều kiện kinh tế - xã hội tại nơi cư trú. Việc xây dựng khái niệm thống nhất sẽ khắc phục tình trạng áp dụng không đồng bộ giữa các địa phương và là cơ sở pháp lý quan trọng để xét duyệt, xác định đúng đối tượng thụ hưởng. Đồng thời, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 76 Luật Nhà ở năm 2023 thêm đối tượng “người lao động có thu nhập thấp ở khu vực nông thôn” vào diện được hưởng chính sách nhà ở xã hội, nhằm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong tiếp cận quyền có nơi ở được ghi nhận tại Điều 59 Hiến pháp năm 2013.       

Thứ hai, trong quá trình ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn Luật Nhà ở, cần cụ thể hóa các quy định về: điều kiện hưởng, mức hỗ trợ, thủ tục xét duyệt và cơ chế giám sát việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội. Tại Điều 78 Luật Nhà ở năm 2023, Nhà nước cho phép hỗ trợ vay vốn ưu đãi thông qua ngân hàng chính sách xã hội và tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định, tuy nhiên các văn bản dưới luật cần quy định rõ mức lãi suất, thời hạn vay, tỷ lệ vốn vay tối đa và hình thức bảo đảm khoản vay. Điều này vừa tạo sự minh bạch, vừa bảo đảm khả năng tiếp cận thực tế cho người lao động có thu nhập thấp, đồng thời ngăn chặn nguy cơ lạm dụng chính sách.

Thứ ba, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà ở xã hội ở cả Trung ương và địa phương, đặc biệt là việc thực hiện các quy trình xét duyệt, phân bổ quỹ nhà ở xã hội. Luật Nhà ở năm 2023 tuy đã quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, nhưng để thực thi hiệu quả cần áp dụng cơ chế công khai, minh bạch toàn bộ danh sách xét duyệt và kết quả phân bổ. Cần tăng cường thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất để phát hiện, xử lý các hành vi lợi dụng chính sách, như chuyển nhượng hoặc cho thuê lại nhà ở xã hội trái pháp luật. Cùng với đó, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, tổ chức công đoàn, quỹ phát triển nhà ở và các thành phần kinh tế khác vào việc đầu tư, xây dựng và quản lý quỹ nhà ở xã hội theo tinh thần xã hội hóa quy định tại Điều 58 Hiến pháp 2013 và Luật Nhà ở.

Thứ tư, việc áp dụng pháp luật cần linh hoạt, phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương, nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ khung pháp lý chung. Cơ quan nhà nước cấp chính quyền địa phương cần được trao quyền chủ động hơn trong việc điều chỉnh quy mô, hình thức và tiêu chí hỗ trợ nhà ở xã hội trên cơ sở điều kiện thu nhập, mật độ dân cư và nhu cầu nhà ở thực tế. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để người lao động thu nhập thấp nhận thức đầy đủ về quyền và thủ tục thụ hưởng chính sách.

Thứ năm, cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có thu nhập thấp trong quá trình thực hiện các thủ tục đăng ký, xét duyệt thuê, mua nhà ở xã hội theo hướng đơn giản, minh bạch, bảo đảm tính công bằng./.

------------------

(1) Nghị định số 30/2025/NĐ-CP, ngày 24-2-2025, của Chính phủ, về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2021 của chính phủ quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 - 2025”
(2) “Công dân và quyền có nơi ở hợp pháp”, Báo Công an nhân dân online, ngày 8-9-2014, https://cand.com.vn/thoi-su/Cong-dan-va-quyen-co-noi-o-hop-phap-i272782/   
(3) Xem thêm: Quyết định số 338/QĐ-TTg, ngày 3-4-2023, của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt Đề án “Đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030”; Quyết định số 444/QĐ-TTg, ngày 27-2-2025, của Thủ tướng Chính phủ, về “Giao chỉ tiêu hoàn thành nhà ở xã hội trong năm 2025 và các năm tiếp theo đến năm 2030 để các địa phương bổ sung vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội”; Nghị quyết số 201/2025/QH15, ngày 29-5-2025, của Quốc hội, về “Thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển nhà ở xã hội”

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/1146202/bao-dam-quyen-co-noi-o-hop-phap-cua-nguoi-lao-dong--thu-nhap-thap-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-hien-nay.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Tái hiện Trung thu cung đình thời Lý tại Hoàng thành Thăng Long
Khách Tây thích thú mua đồ chơi Trung thu phố Hàng Mã về tặng con, cháu
Phố Hàng Mã rực rỡ sắc màu Trung thu, giới trẻ nô nức check-in không ngớt
Thông điệp lịch sử: Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm - di sản tư liệu của nhân loại

Cùng tác giả

Di sản

;

Nhân vật

;

Doanh nghiệp

;

No videos available

Thời sự

;

Hệ thống Chính trị

;

Địa phương

;

Sản phẩm

;