Những thành công và hạn chế
Ủy hội sông Mekong quốc tế (MRC) được thành lập ngày 5-4-1995, gắn với việc bốn quốc gia thành viên là Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ký kết Hiệp định về hợp tác phát triển bền vững sông Mekong (Hiệp định Mekong năm 1995)(1). Trung Quốc và Myanmar cùng chung dòng sông Mekong với bốn quốc gia thành viên MRC, song không gia nhập MRC, tham gia với tư cách là quan sát viên. Mục tiêu chính của MRC là thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia thành viên trong sử dụng, điều phối quản lý và phát triển, bảo vệ tài nguyên nước, cùng các tài nguyên liên quan một cách bền vững, bao gồm không chỉ trong lĩnh vực tưới tiêu, thủy điện, giao thông đường thủy, phòng, chống lũ lụt, thủy sản, thả bè, giải trí và du lịch(2), mà còn vì lợi ích chung của từng nước thành viên và người dân trong lưu vực sông Mekong. MRC bao gồm cơ cấu tương đối hoàn thiện, bao gồm Hội nghị Cấp cao Mekong(3), Cuộc họp Hội đồng thường niên, Ủy ban liên hợp và các cuộc họp kỹ thuật(4). MRC có ba cơ quan thường trực: 1- Hội đồng, 2- Ủy ban Liên hợp và 3- Ban Thư ký. Từ khi thành lập, Ban Thư ký đặt trụ sở văn phòng tại Thủ đô Phnom Penh (Campuchia); từ tháng 6-2004 đặt tại Thủ đô Viêng Chăn (Lào). Ở mỗi nước thành viên đều thành lập Ủy ban sông Mekong quốc gia hoạt động như một bộ phận thuộc MRC, là cơ quan giúp việc của MRC và có Ban Thư ký.
Trong số các tổ chức lưu vực sông lớn trên thế giới, MRC là tổ chức ra đời sớm, có khuôn khổ pháp lý và quy mô hợp tác tương đối hoàn chỉnh về quản lý nguồn nước xuyên biên giới; đồng thời, góp phần thúc đẩy tình đoàn kết, hợp tác nhiều mặt giữa các nước ven sông Mekong. Từ khi thành lập cho đến nay, MRC đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần thúc đẩy hợp tác, phát triển ở các quốc gia thành viên, mở rộng hợp tác với hai nước thượng lưu là Trung Quốc và Myanmar cùng nhiều đối tác quốc tế khác. Các chương trình của MRC hỗ trợ điều tiết dòng chảy thượng - hạ lưu và trang bị kiến thức, kinh nghiệm, công cụ hỗ trợ kỹ thuật để các quốc gia thành viên cùng nghiên cứu, xây dựng chiến lược quản lý, khai thác, sử dụng nguồn nước; đồng thời, củng cố lòng tin làm cơ sở thúc đẩy hợp tác hiệu quả. Hoạt động của MRC không những có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường của khu vực, mà còn góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trong khu vực và cùng chia sẻ lợi ích từ dòng sông Mekong. Hơn nữa, MRC đã đạt một số kết quả quan trọng liên quan đến quản lý nguồn nước chung, như Chiến lược Phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2011 - 2015, được cập nhật 5 năm/lần và các chiến lược ngành cho hầu hết lĩnh vực hợp tác, như môi trường, giao thông đường thủy, biến đổi khí hậu,… góp phần khẳng định vai trò chủ đạo trong nỗ lực chung hướng tới phát triển bền vững, bao trùm và tạo điều kiện giúp mỗi nước thành viên lồng ghép các định hướng lưu vực vào các chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động quốc gia.
Sau 30 năm thực hiện Hiệp định Mekong năm 1995, MRC đã hoàn thành một khối lượng lớn các văn bản về quy chế, thủ tục, sổ tay hướng dẫn, các tiêu chuẩn kỹ thuật… giúp giải thích, thực hiện hiệu quả các điều khoản quy định; đồng thời, hoàn thành 90% yêu cầu xây dựng văn bản pháp lý. Đây là một thành quả nổi bật mà các đối tác, tổ chức quốc tế, nhất là các tổ chức lưu vực sông khác trên thế giới đều đánh giá cao. Bên cạnh đó, MRC thực hiện nhiều nghiên cứu phân tích, đánh giá giúp thực hiện các văn bản pháp lý cùng các tiêu chuẩn kỹ thuật, các định mức phát triển; chỉ tiêu, phương pháp và công cụ đánh giá tác động môi trường, phát triển kinh tế - xã hội từ các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng trên dòng chính của sông Mekong… MRC tiến hành các hoạt động kỹ thuật hỗ trợ công tác giám sát sử dụng nguồn nước; cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên nước cho toàn bộ lưu vực; xây dựng các bộ quy tắc(5) phục vụ việc sử dụng tài nguyên nước; cung cấp hướng dẫn sơ bộ về thiết kế xây dựng các đập trên dòng chính; xây dựng các kịch bản phát triển phù hợp đối với việc sử dụng tài nguyên nước để giúp các nước thành viên xây dựng chiến lược quản lý, khai thác, sử dụng nguồn nước. Ngoài ra, cung cấp thông tin về dự báo bão, lũ lụt trong mùa mưa, xây dựng hiệp định về vận tải thủy chia sẻ thông tin, trao đổi kỹ thuật và thực hiện đánh giá chung...
Một trong những thành quả quan trọng của MRC được nêu rõ trong các tuyên bố chung tại các hội nghị cấp cao là tăng cường mở rộng quan hệ với các đối tác, tranh thủ nguồn lực, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với các hoạt động hợp tác ở Tiểu vùng sông Mekong. Theo đó, MRC mở rộng quan hệ đối tác tới hầu hết tổ chức lưu vực sông quốc tế khác trên thế giới, đặc biệt là với tất cả các cơ chế hợp tác Tiểu vùng, như Hợp tác Mekong - Lan Thương (MLC), Đối thoại Chính sách Quan hệ đối tác Mekong - Mỹ (MUSP), Hợp tác tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS)… nhằm tăng cường chia sẻ thông tin số liệu, phối hợp hoạt động, tiết kiệm nguồn lực và thực hiện các dự án phát triển chung, bảo đảm an ninh nguồn nước để hướng tới sự tăng trưởng bền vững, bao trùm cho toàn bộ lưu vực sông Mekong.
Kể từ khi thành lập cho đến nay, MRC là cơ chế duy nhất ở Tiểu vùng tập trung vào quản lý, phát triển bền vững, điều phối các hoạt động liên quan đến khai thác nguồn nước sông Mekong. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của cơ chế này ngày càng giảm sút do thiếu nguồn lực tài chính. Bên cạnh đó, hoạt động của MRC còn gặp một số rào cản, như: 1- Thiếu phạm vi hợp tác trên toàn lưu vực sông. Theo giới nghiên cứu quốc tế, việc hai quốc gia ở thượng lưu sông Mekong không tham gia Hiệp định Mekong năm 1995 đã làm hạn chế hiệu quả của các quy định quản lý nguồn nước mà MRC đang tích cực thúc đẩy; 2- Thiếu nguyên tắc pháp lý kiểm soát sự phát triển của các công trình trên dòng chính sông Mekong, bởi những công trình này có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của các nước ở khu vực hạ lưu sông hoặc tác động tới những hoạt động trên các dòng nhánh; 3- Thiếu các điều khoản cụ thể về giải quyết tranh chấp. Hiện nay, các nghiên cứu, đề xuất của MRC chủ yếu mang tính khuyến nghị; 4- Sự tham gia của người dân địa phương ven sông trong các vấn đề hợp tác Mekong còn hạn chế, thông tin từ các nguồn chính thức của MRC hoặc từ các nguồn khác chưa đầy đủ, ảnh hưởng tới nhận thức xã hội và cách thức xử lý vấn đề. Bên cạnh đó, những nỗ lực cải tổ MRC chưa thực sự đem lại kết quả như mong muốn; đội ngũ chuyên gia quốc tế tham gia triển khai những dự án lớn về thủy sản, tưới tiêu… chưa nhiều.
Triển vọng phát huy vai trò của Ủy hội sông Mekong quốc tế thời gian tới
Trong các cơ chế hợp tác tại Tiểu vùng sông Mekong, MRC là cơ chế duy nhất được thành lập dựa trên một hiệp định và có chức năng xây dựng khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý nguồn nước của một dòng sông xuyên biên giới. Trong đó, có những quy chế ràng buộc đối với các quốc gia thành viên về sự chia sẻ công bằng, quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên nước và các nguồn tài nguyên khác trên lưu vực sông Mekong, bao gồm cả bảo vệ môi trường, thúc đẩy các dự án phát triển chung… Do đó, MRC tiếp tục là cơ chế hợp tác khu vực quan trọng hàng đầu, có tính chuyên môn đặc thù, đòi hỏi các quốc gia thành viên và đối tác cần có sự quan tâm, đầu tư hơn nữa nhằm duy trì, phát huy các giá trị và thành tựu đã đạt được, cũng như góp phần tìm ra những giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế trong quá trình hoạt động của MRC kể từ khi thành lập cho đến nay.
Bước đi đáng chú ý nhằm đáp ứng yêu cầu này là việc MRC đang triển khai một số điều chỉnh quan trọng về tổ chức và các hoạt động thực chất theo hướng tăng cường sự tự chủ của các quốc gia thành viên, nhất là việc chuyển giao các chức năng chủ chốt trong quản lý lưu vực sông. Hội đồng MRC đã thông qua Đề án chuyển giao, trong đó các chức năng về quản lý lưu vực sông bao gồm: 1- Quan trắc, thu thập và trao đổi số liệu và giám sát; 2- Phân tích, chạy thử mô hình và đánh giá tác động; 3- Hỗ trợ công tác quy hoạch lưu vực sông; 4- Dự báo, cảnh báo và ứng phó khẩn cấp; 5- Thực hiện Bộ Quy chế sử dụng nước của Ủy hội; 6- Khuyến khích đối thoại và hợp tác; 7- Báo cáo, thực hiện cập nhật và truyền thông(6). MRC cũng đưa ra quyết định cải tổ bộ máy Ban Thư ký theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả; thống nhất quy định đóng niên liễm hằng năm của các quốc gia thành viên và mục tiêu tự chủ về tài chính vào năm 2030; đồng thời, mở rộng hợp tác đối thoại với các đối tác, đối tác phát triển, các tổ chức lưu vực sông quốc tế và tổ chức quốc tế trong khu vực, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Cùng với đó, các nước thành viên của MRC nghiên cứu xây dựng cơ chế hoạt động, nội dung hợp tác mới nhằm tăng cường vai trò của MRC trong việc định hướng đề ra các giải pháp cụ thể để đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) trong khu vực, nhất là với sự hỗ trợ, kết nối chặt chẽ của một số cơ chế hợp tác trong Tiểu vùng sông Mekong, như GMS, Hội nghị Cấp cao chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS)… Các nước thành viên MRC hướng tới lồng ghép, tích hợp các nội dung về khai thác, sử dụng, quản lý nguồn nước sông Mekong bền vững vào chương trình nghị sự của ASEAN, cũng như trong các diễn đàn, cơ chế hợp tác do tổ chức này khởi xướng, dẫn dắt như Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)… Đồng thời, thúc đẩy ASEAN quan tâm nhiều hơn tới sông Mekong để có những phản ứng quyết đoán và kịp thời đối với các vấn đề sông Mekong.
Các nước thành viên MRC tiếp tục thúc đẩy tiến trình hợp tác Mekong mạnh mẽ hơn nữa nhằm tranh thủ các nguồn lực phát triển và thích ứng với các thách thức, triển khai các nỗ lực chung nhằm hiện thực hóa các mục tiêu trong Chiến lược Phát triển Lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước giai đoạn 2021 - 2030 (được công bố tháng 4-2021). Chiến lược này đã đề ra 5 lĩnh vực ưu tiên, gồm: 1- Môi trường: Duy trì chức năng sinh thái của lưu vực sông; 2- Xã hội: Tiếp cận bao trùm đối với việc sử dụng tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan; 3- Kinh tế: Tăng cường phát triển nguồn nước và các ngành liên quan một cách tối ưu và bền vững; 4- Biến đổi khí hậu: Gia tăng khả năng chống chịu đối với các rủi ro khí hậu, lũ lụt và hạn hán khắc nghiệt; 5- Hợp tác: Tăng cường hợp tác giữa các nước trong lưu vực và các bên liên quan(7). Trong đó, tăng cường quản lý toàn bộ lưu vực trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của MRC thông qua đổi mới về chính sách, công nghệ và cơ chế hợp tác; bảo đảm các hoạt động tham vấn được thực hiện hiệu quả hơn thông qua diễn đàn của các bên liên quan toàn lưu vực do MRC và các đối tác đối thoại phối hợp tổ chức. Việc tăng cường hợp tác giữa các nước trong lưu vực và các bên liên quan dựa trên quy hoạch phát triển lưu vực chủ động và thích ứng, xác định các dự án đầu tư chung, dự án ở từng quốc gia có ý nghĩa cho toàn lưu vực; các hoạt động hỗ trợ có liên quan nhằm tăng cường tương trợ, giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của cộng đồng ven lưu vực sông Mekong; thực hiện hiệu quả các giải pháp ứng phó toàn diện với biến đổi khí hậu, sử dụng công bằng và hợp lý tài nguyên nước, duy trì hợp lý dòng chảy trên dòng chính…
Theo đó, MRC hướng tới phát triển một lưu vực sông Mekong có nền kinh tế thịnh vượng, môi trường bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu… Để đạt được mục tiêu này, các quốc gia thành viên MRC cần tận dụng tốt các cơ hội phát triển và xử lý những thách thức thông qua một tiến trình chung của cả lưu vực sông Mekong, mang tính tổng thể, bao trùm và đa ngành; xây dựng khung quy hoạch phát triển và tăng cường chia sẻ thông tin, số liệu sử dụng nguồn nước trong toàn bộ lưu vực… Hơn nữa, MRC cần đóng vai trò tích cực hơn trong điều phối lợi ích giữa các quốc gia thành viên và đối tác, chia sẻ, bảo đảm an ninh nguồn nước sông Mekong trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế; tập trung vào vấn đề cải thiện việc quản lý, sử dụng nguồn nước sông Mekong, bởi đây là nội dung quan trọng trong nhóm cơ chế hợp tác giữa Tiểu vùng với các đối tác bên ngoài, cũng là các nước lớn có ảnh hưởng và mang lại nhiều giá trị cho Tiểu vùng. Điều này được thể hiện rõ nhất là ở MUSP với sự kết hợp và kế thừa những nền tảng, thành tựu trong MRC và ACMECS để các nước Tiểu vùng sông Mekong giải quyết hiệu quả vấn đề cải thiện việc quản lý, sử dụng nguồn nước sông Mekong. Đây cũng là một trong những nội dung cơ bản triển khai hợp tác giữa Trung Quốc với các nước Tiểu vùng thuộc khuôn khổ MLC. Với sự tham gia của Trung Quốc, MLC được kỳ vọng sẽ tạo thêm diễn đàn đối thoại giữa các nước cùng chia sẻ nguồn nước sông Mekong, bổ trợ cho hoạt động của MRC, để cùng bảo vệ dòng sông. Việc tổ chức thành công Diễn đàn Hợp tác nguồn nước lần thứ nhất và ký kết Thỏa thuận hợp tác giữa Trung tâm hợp tác tài nguyên nước MLC và Ban Thư ký MRC mở ra triển vọng tăng cường chia sẻ thông tin số liệu thủy văn, hợp tác trong xử lý các tình huống khẩn cấp, như lũ lụt, hạn hán và các thảm họa khác, nâng cao năng lực quản lý nhằm bảo đảm việc sử dụng bền vững và hợp lý các nguồn nước. Thông qua các diễn đàn, Trung Quốc khẳng định cam kết theo đuổi các nguyên tắc phát triển bền vững, bảo vệ môi trường lưu vực, không gây hại tới hạ lưu, bảo đảm các bên cùng có lợi.
Cùng với việc thúc đẩy tiến trình hợp tác Mekong, cần tiếp tục tuân thủ các quy định của MRC về sử dụng bền vững, hợp lý và công bằng nguồn tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan khác của sông Mekong. Ưu tiên việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả Hiệp định Mekong năm 1995 và vai trò giám sát, điều phối của MRC trong triển khai thực hiện các cam kết của các quốc gia thành viên. Tiếp tục tăng cường mạng lưới các trạm quan trắc hiện nay, đặc biệt cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng mạng lưới quan trắc chung về tác động của các công trình thủy điện đối với dòng chảy chính của sông Mekong; chia sẻ thông tin, số liệu cho các quốc gia thành viên; tìm kiếm các cơ hội mở rộng hợp tác với các đối tác phát triển, đối thoại nhằm huy động nguồn lực tiếp tục hỗ trợ các hoạt động của MRC. Các nước Tiểu vùng sông Mekong cần cùng nhau bàn thảo, nghiên cứu đề xuất các giải pháp, cũng như đi đầu trong việc thực hiện các cam kết và thúc đẩy quá trình “Tham vấn trước” đối với các đối tác trong MRC hoặc có thể gia tăng thời gian tham vấn trước. Nghiên cứu sửa đổi thủ tục Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận (PNPCA) theo hướng có thể đạt được sự đồng thuận cao hơn và đòi hỏi có sự tham vấn của cộng đồng dân cư sinh sống ven dòng chính sông Mekong. Đặc biệt, tìm kiếm các phương thức góp phần thúc đẩy, gia tăng vai trò và thẩm quyền của MRC, để tổ chức này có quyền đưa ra những quyết định mang tính ràng buộc, trở thành “trọng tài” minh bạch trong việc đánh giá nguy cơ của các dự án xây dựng thủy điện trên dòng chính, thực hiện các nguyên tắc pháp lý quốc tế về nguồn nước xuyên quốc gia sông Mekong.
Bên cạnh đó, mặc dù các nước ở Tiểu vùng sông Mekong đều bỏ phiếu thuận khi thông qua Công ước nguồn nước năm 1997, nhưng các quy định của Công ước nguồn nước năm 1997 sẽ không có hiệu lực khi xảy ra tranh chấp, xung đột về nguồn nước. Do đó, nếu tất cả các thành viên MRC đều tham gia Công ước nguồn nước năm 1997 sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý khu vực giúp giảm thiểu nguy cơ xảy ra xung đột trong quá trình cùng khai thác và sử dụng nguồn nước sông Mekong, bảo đảm việc phát triển bền vững nguồn nước sông Mekong.
Là quốc gia ở hạ nguồn sông Mekong, Việt Nam luôn đề cao vai trò của MRC và cam kết mạnh mẽ nhằm thúc đẩy hợp tác chặt chẽ với các quốc gia thành viên để triển khai thành công các chiến lược, kế hoạch và chương trình hành động của MRC, vì mục tiêu xây dựng lưu vực sông Mekong thịnh vượng về kinh tế, công bằng về xã hội, lành mạnh về môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Việt Nam nghiêm túc tuân thủ thực hiện hiệu quả Hiệp định Mekong năm 1995, cũng như Bộ Quy chế sử dụng nước đã được xây dựng. Cùng với việc chủ động tham gia trong xây dựng và triển khai các văn kiện quan trọng, các văn bản pháp lý, các chiến lược của MRC; tích cực đóng góp chia sẻ thông tin, số liệu nguồn nước…, Việt Nam cũng là quốc gia thành viên đi đầu trong nỗ lực nâng cao hình ảnh, vị thế và tầm quan trọng của hợp tác trong MRC trên các diễn đàn quốc tế và đa phương; đề cao tinh thần đoàn kết, hợp tác giữa các quốc gia sông Mekong, đóng góp vào ổn định và hợp tác khu vực; quan tâm lợi ích chính đáng của tất cả các quốc gia sông Mekong; thúc đẩy hợp tác giữa MRC với các đối tác đối thoại và đối tác phát triển, cũng như tham gia thúc đẩy các hoạt động hợp tác liên lưu vực sông, trong đó có các lưu vực sông Hằng, sông Danube, sông Nile, sông Amazon và sông Mississippi.
Bên cạnh đó, Việt Nam tích cực tham gia xây dựng và triển khai chương trình, dự án hợp tác chính của MRC, như Chương trình môi trường, Chương trình thủy sản, Chương trình quản lý lũ và hạn, Chương trình chống biến đổi khí hậu, Chương trình nông nghiệp và tưới, Chương trình giao thông thủy, Chương trình phát triển thủy điện bền vững, Dự án Quản lý tổng hợp tài nguyên nước Mekong… và tích cực gắn kết chặt chẽ với các hoạt động thực hiện Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN, các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc, các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, cũng như Thập niên hành động “Nước vì sự phát triển bền vững” giai đoạn 2018 - 2028. Tháng 3-2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng bằng sông Cửu Long hiện đang phải đối mặt với các thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, trên cơ sở xác định tầm quan trọng của hợp tác MRC trong thực hiện Hiệp định Mekong năm 1995, thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục thúc đẩy hợp tác với các nước thành viên của Ủy hội và các đối tác quốc tế, đóng góp vào hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác lưu vực./.
----------------------------------
(1) Là một hiệp định hợp tác lưu vực sông tiến bộ trên thế giới, với những điều khoản cụ thể; là căn cứ pháp lý quan trọng, quy định các nguyên tắc cơ bản và khung hợp tác chung cho các quốc gia thành viên trong lĩnh vực khai thác, bảo vệ nguồn nước và các tài nguyên liên quan khác trong vùng hạ lưu sông Mê Công, bảo đảm quá trình phát triển bền vững, góp phần thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chương trình trọng điểm các quốc gia thành viên trong vùng hạ lưu sông Mekong. Hiệp định gồm 6 chương, 42 điều quy định về các mục tiêu, nguyên tắc hợp tác, lĩnh vực, phạm vi, các khuôn khổ thể chế, cơ cấu tổ chức và cách thức hoạt động của tổ chức; đồng thời cũng hướng dẫn về cơ chế giải quyết bất đồng nảy sinh giữa các nước khi thực hiện. Nguyên tắc cơ bản trong hợp tác giữa các quốc gia thành viên MRC là đồng thuận, bình đẳng và tôn trọng chủ quyền lãnh thổ. Nguyên tắc sử dụng nước công bằng và hợp lý của quốc tế cũng được áp dụng. Các vấn đề liên quan hợp tác Mekong được xem xét và giải quyết bằng các quá trình tư vấn rộng rãi ở nhiều cấp. Hiệp định Mekong năm 1995 cũng hướng tới thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc và thực hiện các công ước quốc tế khác liên quan đến quản lý, khai thác, phát triển tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tuy là một hiệp định cấp khu vực và được ký trước hai năm so với Công ước về Luật Sử dụng các nguồn nước xuyên biên giới vì mục đích phi giao thông thủy năm 1997 (Công ước nguồn nước năm 1997 - Công ước được Liên hợp quốc thông qua năm 1997 là văn kiện pháp lý toàn cầu đầu tiên về quản lý các nguồn nước xuyên biên giới. Ngày 19-5-2014, Việt Nam gia nhập Công ước, trở thành thành viên thứ 35 của Công ước, thỏa mãn điều kiện về số lượng các quốc gia tham gia để Công ước bắt đầu có hiệu lực. Theo quy định, Công ước có hiệu lực vào ngày thứ 90 kể từ ngày nộp lưu chiểu văn kiện phê chuẩn thứ 35 cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc - ngày 17-8-2014), nhưng Hiệp định Mekong năm 1995 lại có nhiều nội dung tương đồng với Công ước nguồn nước năm 1997, thậm chí được đánh giá hoàn thiện hơn Công ước năm 1997 vì công ước không yêu cầu các bên của một lưu vực sông phải thiết lập một tổ chức quản lý lưu vực sông như Hiệp định Mekong năm 1995
(2) “Ủy hội sông Mekong quốc tế (MRC) - Mekong River Commission (MRC)”, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/to-chuc-quoc-te/uy-hoi-song-me-cong-quoc-te-mrc-mekong-river-commission-mrc-3259
(3) Từ khi thành lập đến nay, MRC đã tổ chức 4 hội nghị cấp cao: lần thứ nhất ở Thái Lan (tháng 4-2010); lần thứ hai ở Việt Nam (tháng 4-2014); lần thứ ba ở Campuchia, tháng 4-2018; lần thứ tư ở Lào, tháng 4-2023
(4) Bennett L. Beardena: “The legal regime of Mekong River: a look back and some proposals for the way ahead (Tạm dịch: Chế độ pháp lý của Sông Mekong: Nhìn lại và một số đề xuất cho chặng đường phía trước)”, Water Policy, số 6, tháng 11-2010
(5) Bao gồm: 1- Trao đổi và Chia sẻ thông tin số liệu; 2- Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận; 3- Giám sát sử dụng nguồn nước; 4- Duy trì dòng chảy trên dòng chính; 5- Kiểm soát chất lượng nước; 6- Các hướng dẫn kỹ thuật để thực hiện các quy chế này. Đặc biệt, thủ tục Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận (PNPCA) buộc các nước thành viên MRC phải thông báo cho Ủy ban liên hợp của MRC khi tham gia bất cứ dự án xây dựng kết cấu hạ tầng nào trên dòng chính sông Mekong. Theo đó, thủ tục này đã giúp MRC triển khai hiệu quả quá trình tham vấn cho các dự án thủy điện trên dòng chính sông Mekong. Tuy nhiên, thủ tục PNPCA không có tính ràng buộc các thành viên phải đi đến thỏa thuận đồng ý, các quốc gia được tham vấn trước cũng không được phủ quyết để yêu cầu dừng các dự án có thể gây nguy hại cho an ninh nguồn nước ở khu vực hạ lưu vực sông Mekong
(6), (7) Tô Minh Thu, Tiểu vùng sông Mekong: Hợp tác năng động vì thịnh vượng, an ninh và phát triển bền vững, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2021, tr. 97, 104
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1146402/uy-hoi-song-mekong-quoc-te-sau-30-nam-thanh-lap--ket-qua%2C-han-che-va-trien-vong.aspx
Bình luận (0)