Trước hết, tỉnh tăng cường công tác quy hoạch không gian biển. Đến nay, Quảng Ninh đã hoàn thành phân vùng không gian biển tích hợp vào Quy hoạch tỉnh, xác định rõ các khu vực ưu tiên phát triển kinh tế gắn với việc bảo tồn các khu vực có giá trị sinh thái cao như Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Bái Tử Long và Khu bảo tồn biển Cô Tô - Đảo Trần, Khu bảo tồn đất ngập nước Đồng Rui (xã Hải Lạng), thành lập các hành lang đa dạng sinh học để tăng cường kết nối, ổn định các sinh cảnh thích ứng biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên đa dạng sinh học. Việc phân vùng này không chỉ hướng hoạt động đầu tư vào những khu vực phù hợp mà còn là cơ sở pháp lý để ngăn chặn san lấp, thay đổi mép nước trái phép và bảo vệ hành lang sinh thái ven biển.
Bên cạnh đó, tỉnh còn quy hoạch và triển khai các khu bảo tồn biển, với 3 khu bảo tồn biển có tổng diện tích lên tới 38.575ha và 13 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản khoảng 3.440ha nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi nguồn lợi và tạo vùng an toàn giúp hệ sinh thái tái sinh. Hằng năm, Quảng Ninh thực hiện thả giống với quy mô khoảng 6-7 triệu con giống, kết hợp triển khai các mô hình khai thác bền vững, quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng.
Từ hành lang bảo vệ bờ biển đến bàn giao mặt biển cho hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng được thực hiện chặt chẽ. Tỉnh đã hoàn thành quy hoạch 45.146ha đất mặt nước cho phát triển nuôi trồng thủy hải sản; ban hành quy định quản lý hành lang bảo vệ bờ biển. Đến nay đã bàn giao 3.287ha mặt biển cho nuôi trồng thủy sản. Tỉnh cũng đã quy hoạch diện tích bãi triều để nuôi trồng các loài bản địa như: Ngán, sá sùng, ngao, cua là 29.717,18ha. Điều này giúp cân bằng giữa phát triển thủy sản và bảo vệ môi trường, đồng thời tạo hành lang kiểm soát hoạt động tại vùng ven bờ.
Cùng với đó, tỉnh còn chú trọng giám sát và kiểm soát nguồn thải. Hệ thống quan trắc môi trường được mở rộng. Hiện tỉnh vận hành hàng trăm điểm quan trắc, gồm mạng lưới 390 điểm giám sát các khu vực nhạy cảm cùng hệ thống 171 trạm quan trắc môi trường tự động để kiểm soát chất lượng nước và nguồn thải. Công tác thanh, kiểm tra định kỳ và đột xuất đã được tăng cường nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm về môi trường biển; tăng cường hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong lĩnh vực thủy sản, đặc biệt đối với các tàu cá vi phạm khai thác bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU).
Giải pháp giảm rác thải nhựa và quản lý chất thải rắn cũng được các địa phương trên địa bàn đẩy mạnh. Quảng Ninh triển khai các mô hình “Vịnh Hạ Long - Không rác thải nhựa”, “Cô Tô - Không có rác thải nhựa”… góp phần hoàn thành trước hạn 3/6 chỉ tiêu của Kế hoạch quốc gia quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030. Tỉnh cũng thúc đẩy phân loại rác tại nguồn, phát triển cơ sở hạ tầng xử lý chất thải rắn với 19 lò đốt và 3 khu xử lý cấp vùng, hướng tới tăng tỷ lệ thu gom, tái chế và giảm thiểu rác thải ra biển.
Công nghệ, khoa học và cơ chế chính sách cũng được chú trọng để tạo đòn bẩy cho các biện pháp bảo vệ môi trường biển. Tỉnh thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong quan trắc, xử lý chất thải và phát triển kinh tế tuần hoàn; đồng thời xây dựng các bộ quy chuẩn kỹ thuật địa phương phù hợp với điều kiện thực tế (như vật liệu làm phao trong nuôi trồng thủy sản) và nâng cao chất lượng thẩm định, cấp phép môi trường để đảm bảo dự án phát triển phù hợp quy hoạch và không gây tổn hại hệ sinh thái biển.
Với các giải pháp đa dạng từ quy hoạch tổng thể, bảo tồn khu vực nhạy cảm, giám sát môi trường, quản lý hoạt động nuôi trồng và xử lý chất thải, đến huy động cộng đồng và ứng dụng khoa học… mà Quảng Ninh triển khai, thực hiện thời gian qua đã tạo thành một chiến lược liên kết, vừa bảo vệ hệ sinh thái biển, vừa tạo điều kiện cho phát triển kinh tế biển bền vững trên địa bàn.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/bao-ve-moi-truong-bien-ben-vung-3378091.html
Bình luận (0)