Chính nơi đây đã chứng kiến cuộc tao ngộ kỳ diệu của 4 chàng thi sĩ trẻ, để rồi kết thành một nhóm văn chương độc đáo trong lịch sử thi ca VN: Bàn Thành tứ hữu, gồm Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan và Chế Lan Viên. Họ không lập trường phái, chẳng tuyên ngôn ràng buộc, chỉ đến với nhau bằng sự đồng điệu tâm hồn, bằng khát vọng gửi gắm thời thế vào từng câu chữ. Từ những đêm ngồi lầu Cửa Đông ngắm trăng trên thành cổ, họ để lại cho đời không chỉ thi phẩm bất hủ mà còn một giai thoại tình bạn hiếm có trong văn đàn.
Gặp nhau dưới bóng thành cổ
Anh cả trong nhóm là Quách Tấn (1910 - 1992), quê ở làng Trường Định (nay thuộc xã Bình An, Gia Lai), bậc thầy Đường thi, phong cách cổ điển đằm thắm. Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh ở Quảng Bình (nay thuộc tỉnh Quảng Trị) nhưng gắn trọn đời thơ với Quy Nhơn. Yến Lan (1916 - 1998), tên thật Lâm Thanh Lang, vốn là bạn thiếu thời của Chế Lan Viên (1920 - 1989), tên thật Phan Ngọc Hoan.
Nhà thơ Yến Lan, Chế Lan Viên (từ phải sang) và văn nghệ sĩ viếng mộ thi sĩ Bích Khê tại Quảng Ngãi năm 1988
ẢNH: TƯ LIỆU
Trong hồi ký Nhớ mãi về anh, cụ Nguyễn Thị Lan (vợ nhà thơ Yến Lan) kể, nhà Chế Lan Viên sát cửa đông thành Bình Định (thành do triều Nguyễn xây năm 1814, cách thành Hoàng Đế khoảng 6 km về hướng đông nam), cách nhà Yến Lan chỉ vài trăm bước. Thuở nhỏ, 2 người thường rủ nhau ra lầu Cửa Đông ngắm trăng. Chính từ bóng tháp rêu phong, từ nỗi ngậm ngùi trước lịch sử tàn phai mà những áng thơ Điêu tàn hay Giếng loạn cất lên.
Một sáng năm 1930, Yến Lan gặp Hàn Mặc Tử khi ông cùng nhà văn Nguyễn Công Hoan ghé thăm cha mình. Từ cuộc gặp ấy, tình bằng hữu nảy nở. Yến Lan kết thân với Hàn, rồi kéo thêm Chế Lan Viên. Năm 1931, Hàn Mặc Tử giới thiệu Quách Tấn, bộ tứ thi ca từ đó thành hình.
Cái tên Bàn Thành tứ hữu không phải do họ đặt, mà do bạn bè yêu thơ trân trọng gọi. Người khởi xướng là ông Trần Thống, quê làng Kiên Mỹ, H.Bình Khê (nay thuộc Gia Lai), khi ví bốn thi sĩ với tứ linh phương Đông: Long - Hàn Mặc Tử, Lân - Yến Lan, Quy - Quách Tấn, Phụng - Chế Lan Viên. Cách ví ấy vừa thú vị, vừa phần nào đúng với khí chất từng người. Hàn Mặc Tử tài hoa ngất ngưởng nhưng yểu mệnh. Yến Lan chan chứa tình bạn, tình đời. Quách Tấn cứng cỏi, bền bỉ, thủy chung với thơ Đường. Chế Lan Viên rực rỡ, dữ dội, xuất hiện như một hiện tượng lạ trong văn học VN.
Không gian thơ Bình Định
Theo nhà văn Lê Hoài Lương (Gia Lai), cụ Yến Lan lúc sinh thời kể rằng nhóm Bàn Thành tứ hữu thường gặp nhau để đọc thơ, tranh luận chữ nghĩa, chia sẻ ý tưởng sáng tác, khi thì tại nhà của Hàn Mặc Tử ở Quy Nhơn, khi tại thành Bình Định. "Quách Tấn vẫn trung thành với Đường thi, còn 3 người bạn thì đi nhanh qua lãng mạn để bước vào tượng trưng, siêu thực, tạo nên một "trường thơ" riêng của Bình Định. Dù khác biệt, họ vẫn gắn bó, tôn trọng tài năng của nhau và đều hiện diện trang trọng trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh", nhà văn Lê Hoài Lương nói.
Vẻ đẹp tàn phai của nền văn minh Champa ở thành Đồ Bàn là nguồn cảm hứng cho nhóm Bàn Thành tứ hữu
ẢNH: DŨNG NHÂN
Chưa đầy một thập niên (1936 - 1945), nhóm đã để lại cho văn đàn những tập thơ kinh điển: Thơ điên (Hàn Mặc Tử), Điêu tàn (Chế Lan Viên), Giếng loạn (Yến Lan), Mùa cổ điển (Quách Tấn). Không chỉ làm giàu thêm diện mạo thi ca Việt, họ còn góp phần định hình một "không gian thơ Bình Định" riêng biệt.
Thành Đồ Bàn, biểu tượng của một nền văn minh đã tàn phai, cùng vẻ đẹp sững sờ của những ngôi tháp Chăm, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho bộ tứ. Trong thơ Hàn, vầng trăng trở thành ám ảnh trọn đời. Trong thơ Chế, bóng dáng tháp Chăm, Chiêm nữ, nỗi sầu vong quốc hóa thành hình tượng nghệ thuật. Với Yến Lan, không gian huyền ảo của Bến My Lăng, của những Chiêm nương kiếp đời thương khó, đã trở thành dấu ấn riêng. Còn Quách Tấn, bằng phong vị cổ kính, giữ cho thi đàn một "tiếng nói xưa" giữa thời hiện đại.
Tình bạn bền chặt hơn nửa thế kỷ
Nếu chỉ xét về thi ca, Bàn Thành tứ hữu đã đủ để đời. Nhưng điều khiến họ trở nên đặc biệt chính là tình bạn keo sơn, coi nhau như anh em ruột. Trong hồi ký, bà Nguyễn Thị Lan nhớ lại: "Ba anh Tấn, Lan, Chế thương nhau như ruột thịt. Thỉnh thoảng, hai người từ Bình Định lại rủ nhau vào Nha Trang thăm anh Tấn". Đám cưới Chế Lan Viên, Quách Tấn lo sắp đặt, thuyết phục nhà gái; Yến Lan phụ trách tài chính. Sự gắn bó ấy vượt lên trên mọi khác biệt cá tính hay quan niệm nghệ thuật.
Nhà văn Lê Hoài Lương (giữa) kể chuyện về Bàn Thành tứ hữu tại Nhà lưu niệm thi sĩ Yến Lan (P.An Nhơn Đông, Gia Lai)
ẢNH: HOÀNG TRỌNG
Những ngày cuối đời, Hàn Mặc Tử tin cậy ký thác di cảo cho Quách Tấn. Dù chiến tranh khiến nhiều bản thảo thất lạc, ông vẫn nỗ lực xuất bản thơ bạn, thậm chí chép lại từ trí nhớ. Sau khi Hàn qua đời và được an táng tại trại phong Quy Hòa, chính Quách Tấn cùng gia đình đã đưa hài cốt bạn về Ghềnh Ráng (nay thuộc P.Quy Nhơn Nam, Gia Lai). Nơi ấy nay trở thành đồi Thi Nhân, điểm đến văn hóa nổi tiếng của Quy Nhơn.
Năm 1998, trước khi qua đời, Yến Lan còn nhờ con trai đưa ra Ghềnh Ráng viếng mộ Hàn. Trước mộ bạn, trong tiếng sóng gió lộng, ông như thấy lại tuổi đôi mươi sôi nổi, những đêm trăng hẹn hò thi ca.
Mộ Hàn Mặc Tử tại đồi Thi Nhân
ẢNH: HOÀNG TRỌNG
Bàn Thành tứ hữu đã lần lượt rời xa cõi thế, nhưng bóng dáng họ vẫn hiện diện trong lòng người yêu thơ. Nhà văn Lê Hoài Lương đề nghị Quy Nhơn nên có một con đường mang tên Bàn Thành tứ hữu, trên đồi Thi Nhân cần dựng một nhà lưu niệm, hoặc xa hơn là một Bảo tàng Văn học Bình Định để vinh danh họ cùng các văn nhân qua nhiều thế hệ. Đó không chỉ là sự tri ân xứng đáng với những tài hoa đã để lại dấu ấn bất hủ, mà còn là điểm hẹn để hậu thế tìm về, tiếp nối mạch nguồn thi ca. (còn tiếp)
Nguồn: https://thanhnien.vn/bong-dang-champa-trong-hon-tho-ban-thanh-tu-huu-185251023230501315.htm






Bình luận (0)