Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ của nhân dân
Từ quá trình nghiên cứu, tiếp thu sâu sắc, để vận dụng thấu đáo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và dựa trên hệ thống kiến thức đồ sộ của nhân loại, kinh nghiệm đúc rút trong thực tiễn hoạt động cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm khẳng định nguyên tắc dựa vào dân, khoan thư sức dân, tập hợp sức mạnh, trí tuệ của nhân dân. Người chỉ rõ sức mạnh lớn nhất của một dân tộc nằm ở sự tổng hợp và phát huy trí tuệ của toàn dân, rằng “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”(1); chỉ khi “Dân có giàu thì nước mới mạnh”(2) và “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”(3),... Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, trí tuệ của nhân dân là nguồn lực vô tận, quý báu nhất. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn lực vật chất và trí tuệ có mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau và đều quan trọng, góp phần làm nên sự thành bại của cách mạng; tuy nhiên, nguồn lực vật chất luôn mang tính hữu hạn, còn khả năng sáng tạo là vô tận nếu biết phát huy, sử dụng hợp lý. Theo Người, con người, nhân dân là lực lượng có sức mạnh to lớn, là chủ thể quý giá nhất, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(4). Việc đặt nhân dân trong sự so sánh với cái vô cực, bao la của đất trời cho thấy nhân dân luôn có vị trí lớn lao trong tư tưởng của Người, rằng chỉ khi có sự tôn trọng, khích lệ đóng góp của nhân dân thì mới có thể xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh, hưng thịnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán việc xác định và xây dựng lực lượng làm cách mạng là nhân dân. Nhân dân không chỉ là lực lượng lao động chủ yếu, trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, mà là nhân tố then chốt thúc đẩy cách mạng đi đến thành công cuối cùng. Người chỉ rõ: “Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”(5); phải lấy dân làm gốc, bởi “Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(6). Nhân dân chính là lực lượng có tầm vóc quyết định, làm nên thắng lợi vẻ vang của Tổ quốc, từ các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, chống thực dân, đế quốc xâm lược cho đến công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, trí tuệ của nhân dân vừa là trí tuệ của con người cụ thể từ trong lao động, sản xuất, sinh hoạt, chiến đấu, vừa là trí tuệ của cộng đồng, tập thể nên luôn có tính thực tế, chứa đựng cách thức giải quyết vấn đề đơn giản, nhanh chóng mà hiệu quả. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quần chúng rất thông minh, mưu trí, sáng tạo, giải quyết vấn đề đơn giản, nhanh chóng “mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(7). Người chỉ rõ: “Sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, những điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực”(8); “có quyết tâm làm ích lợi cho quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người”(9).
Thứ ba, đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải tâm huyết, dành thời gian lắng nghe, cân nhắc thấu đáo ý kiến, đề xuất và khuyến khích nhân dân tham gia sâu vào quá trình ra quyết định để tạo ra chính sách phù hợp với nhu cầu của quần chúng cũng như tạo sự đồng lòng và tinh thần đoàn kết rộng rãi trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng.... Muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn, phải chịu khó”(10). Do đó, phải siêng năng gặp gỡ, tiếp xúc, đối thoại, thường xuyên với quần chúng, lắng nghe, thấu hiểu nhân dân, biết cách chắt lọc điều hữu ích, hữu dụng từ nhân dân, bởi lẽ “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân”(11). Đây là chỉ dẫn sâu sắc trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc coi trọng trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân, học hỏi từ nhân dân; Người thường xuyên nhắc nhở, phê bình một số cán bộ có biểu hiện tự cao, tự đại, xem thường dân chúng, rằng “Có người thường cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi. Vì vậy, họ không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng”(12).
Thứ tư, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong mọi hoàn cảnh, phải luôn tin tưởng quần chúng, đi đúng đường lối dựa vào nhân dân, rằng trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân là vô cùng, vô tận(13). Trong những năm đầu vô cùng khó khăn của chính quyền cách mạng, Người đã viết nhiều tác phẩm, như “Về việc tiếp chuyện các đại biểu”; “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”; “Nhân tài và kiến quốc”, “Tìm người tài đức”,... để kêu gọi người tài, tìm kiếm tài lực, phát huy trí tuệ trong nhân dân. Theo Người, việc đãi trọng kẻ sĩ, chiêu mộ, quy tụ nhân tài từ trong nhân dân luôn gắn liền với khoa học dùng người, có cách thức, việc làm thiết thực để phát huy tài năng, trí tuệ, sức sáng tạo của dân tộc. Đặc biệt, cán bộ phải có trách nhiệm quan tâm tới đời sống nhân dân để họ có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Trước khi đi xa, điều khiến Người quan tâm đặc biệt nhất vẫn là “công việc đối với con người”, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(14).
Ngoài ra, trong quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định đội ngũ trí thức đóng vai trò tiên phong, nòng cốt của cách mạng, đồng thời chủ trương tăng cường tuyển chọn, đào tạo trí thức xuất thân từ công nhân và nông dân. Từ thực tiễn, Người chỉ rõ phải “giúp đỡ anh em trí thức cũ tiến bộ, cải tạo tư tưởng, đồng thời đào tạo ra trí thức mới từ lớp công nhân, nông dân”(15). Điều đó có nghĩa, đội ngũ trí thức phải thực sự gần gũi, gắn bó mật thiết tầng lớp công - nông, biết trọng lao động, học tập tinh thần, nghị lực và sáng kiến của công nhân, nông dân, mặt khác, cần có phương hướng và kế hoạch nhằm “nâng cao trình độ công nông về văn hóa lý luận”(16).
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ luôn đề cao trí tuệ của nhân dân, mà còn chỉ rõ, phải “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”(17); phải phát huy mọi nguồn lực vốn có, đặc biệt là trí tuệ, sức sáng tạo trong nhân dân nhằm mục tiêu cao nhất chính là phục vụ nhân dân. Theo đó, phải biết quý trọng và đặt nguồn lực trí tuệ của nhân dân vào vị trí trung tâm trong sự nghiệp cách mạng. Hơn nữa, công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của toàn dân, trước hết “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(18); tất cả thắng lợi của dân tộc ta không phải là công lao riêng của Đảng ta, đó là công lao chung của toàn đồng bào trong cả nước, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào(19).
Thứ năm, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải từ nhân dân mà ra, là kết quả phản ánh nhu cầu, lợi ích căn bản của nhân dân; là sự kết tinh trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân, của dân tộc; ngược lại, mọi tầng lớp nhân dân đều có quyền và có nghĩa vụ xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đề cao tinh thần, trách nhiệm của nhân dân, rằng “khi dân dùng đày tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình”(20).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lưu ý, cần có tinh thần học hỏi và bàn bạc, giải thích với dân chúng về mọi việc, nhưng “tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng”(21), dân chúng nói gì cũng làm theo, mà phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, vừa tránh “sợ sai”, “sợ khuyết điểm”; có tư duy độc lập, không bị ảnh hưởng bởi mọi yếu tố ngoại lai; tuyệt đối tránh tư duy cá nhân, thái độ kiêng kỵ, vừa tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, vừa thực hiện tốt vai trò “cầm lái” của mình. Người phân tích, tư tưởng bảo thủ, duy ý chí, không chịu đổi mới là sợi dây cột chân cột tay người ta, kìm hãm sự tiến bộ, phát triển nên phải tháo bỏ nó đi; muốn cán bộ công tác giỏi, muốn sự nghiệp đổi mới tiến lên, gặt hái được nhiều thành tựu năm sau to hơn năm trước thì nhất định phải dám nghĩ, dám làm, có gan phụ trách; bởi “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng” không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”(22) và “Vị thế công bộc” của người lãnh đạo chính là ở ý chí kiên định và dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Vận dụng chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước và xã hội, đề xuất sáng kiến, tham gia ý kiến, bàn và quyết định đối với nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở ngày càng hiệu quả hơn. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” tiếp tục được hoàn thiện, cụ thể hóa, đi sâu vào đời sống. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai nhiều nhiệm vụ nhằm vận động nhân dân tham gia đóng góp, cống hiến tích cực vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước cũng như thực hiện nghiêm túc Hiến pháp và pháp luật; không ngừng đổi mới phương thức, nội dung giám sát, phản biện xã hội, góp phần xây dựng, chính đốn Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước(23). Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(24). Có thể khẳng định, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của nhân dân hiện vẫn còn vẹn nguyên giá trị, khi xã hội càng phát triển, chúng ta càng thấm thía hơn lời chỉ dẫn quý báu của Người.
Tuy nhiên, bên cạnh kết những quả đáng khích lệ, nhiệm vụ thu hút, phát huy trí tuệ của nhân dân có nơi, có lúc chưa kịp thời, thiếu tính đổi mới, hiệu quả chưa cao và chưa sát với thực tiễn, khi mà “công tác thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân... Công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”(25). Mặt khác, một số vấn đề phức tạp cũng phát sinh, nhưng chưa được quan tâm đúng mức để đề ra biện pháp xử lý dứt điểm; một số tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực sự tôn trọng ý kiến, tâm tư, kịp thời giải quyết đề xuất, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân; việc thực hiện dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật,... Theo đó, để thực hiện hiệu quả chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh trí tuệ của nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay cần quan tâm làm tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiêm túc quán triệt, thực hiện hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát huy sức mạnh trí tuệ của nhân dân; đẩy mạnh quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở, tiếp tục mở rộng dân chủ trực tiếp, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” đi vào cuộc sống ở cơ sở trong bối cảnh mới(26). Lý luận lẫn thực tiễn đều cho thấy, dù ở giai đoạn, thời kỳ nào của đất nước, yếu tố trí tuệ của nhân dân cũng là nguồn lực vô tận, tác động mạnh mẽ đối với sự nghiệp cách mạng. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nguồn lực tài nguyên thiên nhiên khoáng sản ngày càng khan hiếm, thậm chí đứng trước nguy cơ cạn kiệt, trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân là yếu tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Nhất là trước thời điểm đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Đảng và Nhà nước càng phải phát huy cao trí tuệ của nhân dân, coi đây là cội nguồn sức mạnh của đất nước; luôn ý thức rằng, chủ trương phù hợp, khoa học chỉ thành công khi thực sự được nhân dân ủng hộ, tán thành, nên phải tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa “ý Đảng” với “lòng dân”, nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, từ đó đề ra chính sách khơi dậy và phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của cá nhân, tập thể.
Thứ hai, Đảng ta nhận định: “Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới”(27); theo đó, trí tuệ của nhân dân phải được ghi nhận và lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội bằng hoạt động biểu dương kịp thời và hình thức khen thưởng xứng đáng. Các cấp, các ngành phải quan tâm thực hiện kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch, chính xác trong công tác tuyên dương, khen thưởng cá nhân, tổ chức có nhiều đóng góp cho sự phát triển của xã hội, đất nước. Tạo nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ niềm tự hào để nhân dân nỗ lực hăng say, tích cực phát huy năng lực của bản thân, lan tỏa giá trị mạnh mẽ trong cộng đồng để khuyến khích, phát huy trí tuệ, sức sáng tạo vào công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về quan tâm chăm lo mọi tầng lớp trong xã hội, hướng vào giá trị nhân văn cao đẹp, phát huy nhân tố con người, tạo điều kiện sinh sống, học tập, lao động và cống hiến hết mình cho đất nước, cho Tổ quốc; thực hiện tốt chính sách về giáo dục, đào tạo, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe, tạo việc làm, an sinh xã hội để phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tập trung phát triển lĩnh vực khoa học - công nghệ, ưu tiên công tác chăm sóc, bồi dưỡng nhân tài, nuôi dưỡng, bồi đắp nguồn trí tuệ Việt Nam ngày càng lớn mạnh, trọng dụng nhân tài, sử dụng nhân lực chất lượng cao khoa học, hợp lý, hiệu quả. Đây chính là sức mạnh nội sinh thúc đẩy và quyết định kinh tế - xã hội, nước ta phát triển nhanh và bền vững. Đổi mới, nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu mới, luôn ý thức rằng “đổi mới giáo dục trở thành xu thế toàn cầu và Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó”(28).
Thứ tư, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tích cực, chủ động, hăng hái tham gia vào công cuộc xây dựng, kiến thiết đất nước, đóng góp trí tuệ nhằm mang lại giá trị kinh tế - xã hội thiết thực trên các lĩnh vực. Thời gian qua, rất nhiều nông dân, công nhân, thợ điện, nhân viên lao công,... trở thành tấm gương điển hình tiên tiến trong cộng đồng xã hội khi nghiên cứu chế tạo được nhiều loại máy móc, thiết bị, cải tiến kỹ thuật, sáng tạo trong hoạt động sản xuất, công tác, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm,... mang lại giá trị thiết thực, lợi ích kinh tế to lớn. Tuy nhiên, thủ tục liên quan đến sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, công nhận bằng sáng chế,... còn rườm rà, ảnh hưởng đến tâm huyết, sức sáng tạo của từng cá nhân; do đó, cần nghiên cứu, ban hành hướng dẫn kịp thời các thủ tục đăng ký bản quyền nhanh chóng, thuận lợi nhất cho tác giả, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tác giả.
Thứ năm, biết lắng nghe, thương yêu, có trách nhiệm với người dân. Người cán bộ lãnh đạo cần thường xuyên lắng nghe ý kiến của cộng đồng. Tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên về vai trò của quần chúng nhân dân; nghiên cứu, tổ chức hình thức, cơ chế phù hợp để người dân tham gia đề xuất sáng kiến, tham gia ý kiến, bàn và quyết định các nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” để “ý Đảng” hợp với “lòng Dân”. Cần “Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”(29). Người đứng đầu đơn vị, tổ chức cần tạo môi trường làm việc linh hoạt, thân thiện, thật sự tôn trọng ý kiến đổi mới sáng tạo của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động./.
------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 280
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 316
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 297
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 453
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 247
(6), (7), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 502, 335, 284 - 285, 285, 333
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 432
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 335
(13) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 283
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622
(15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 56, 57
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 81
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(19) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 672
(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 75
(21), (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 338, 320
(23) Xem: Nguyễn Hữu Dũng: “Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 985, tháng 3-2022,tr. 32
(24) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 173
(25) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 91
(26) Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Kết luận số 120-KL/TW, ngày 7-1-2016, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”; Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18-2-2019, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (năm 2022); Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “Về tiếp tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”; Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”,...
(27) Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6-8-2008, của Hội nghị Trung ương 7 khóa X, “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
(28) Xem: GS. TS. Tô Lâm: “Phát huy truyền thống hiếu học, quý trọng hiền tài của dân tộc; sự tâm huyết, yêu nghề các nhà giáo, cùng sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, toàn ngành giáo dục quyết tâm thực hiện thành công công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo”, Tạp chí Cộng sản, số 1.051 (tháng 12-2024), tr. 10
(29) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 167
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/1125902/chi-dan-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-phat-huy-tri-tue-cua-nhan-dan-va-viec-van-dung-trong-boi-canh-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi.aspx
Bình luận (0)