Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Chiêm bao biển - Truyện ngắn dự thi của Lê Văn Thân

Dì về giữa mùa biển động. Cha ngăn bước chân tôi chạy ra đón dì. Trong quãng ngắn giữa ba người, không có những hàng phi lao chạy dài tít tắp, chỉ có những ngõ sâu hun hút trong ánh mắt của dì, trong cơn giận dài năm tháng của cha.

Báo Thanh niênBáo Thanh niên09/11/2025

Đàn dã tràng bao năm vẫn thế, vẫn miệt mài xe cát, có đợi ai quay về?

"Tự đi thì tự biết đường mà về".

Cha đánh tiếng, tay gỡ mấy con cá chết ngạt nơi mắt lưới. Những con cá nằm khô cong trong cái âm u của mùa giông, nằm trong đáy nồi được bày biện qua loa trong bữa cơm thiếu bàn tay người đàn bà. Những bữa cơm của tôi và cha, giữa hai người đàn ông, nhìn đâu cũng thấy sự im lìm trống vắng.

"Nước sạch ngoài lu, rửa cho sạch những mặn chát đi".

Cha ngước lên nói với dì. Đàn cá quẫy đạp cố thoát ra khỏi tấm lưới ngả màu dưa gang. Tiếng cha bắt đầu lơi dần trong tiếng gió rít ầm ào qua bãi cát. Những mặn mòi của biển ám lấy cuộc đời dân chài. Đêm về lòng người cũng ầm ào như sóng. Dì khẽ gật đầu đáp lại cha rồi lặng lẽ cúi mình đi vào nhà, như lúc dì bỏ đi.

Cha cưới dì về khi nỗi nhớ của ông về mẹ đã dần nguôi ngoai. Nói là cưới nhưng cũng chỉ tổ chức ba mâm cơm cùng mấy cơi trầu. Dì có dáng người thô ráp, khuôn miệng cá hô như người làng vẫn bảo. Những câu chuyện của người dân làng chài quẩn quanh câu chuyện về biển cả. Đẹp đẽ cũng ví như loài cá, xấu xa cũng mang loài cá vào.

Ngày mẹ mất, cha ngược lên đồi cát cùng chai rượu trắng bao giờ cũng vơi một nửa. Nửa còn lại ủ say cha đến cạn ngày, kéo dài tới khi trăng lên tỏa rạng một vùng cát trắng.

Chiêm bao biển - Truyện ngắn dự thi của Lê Văn Thân- Ảnh 1.

MINH HỌA: VĂN NGUYỄN

Những ngày tháng cha chìm lút trong cơn say, một mình dì tất bật lo cơm nước cho gia đình.

Biển bắt đầu nổi cơn giông. Một đêm khi cha khật khưỡng từ đồi cát trở về, dì bảo: "Nếu không đủ can đảm để chết thì ông phải sống cho ra một con người". Hai tiếng "con người" dì nghẹn lại, rặng phi lao rì rào nghe rất gần, thổi trôi một đời con gái. Dì chỉ nói đúng một câu và đi. Tôi nằm phía bên kia giả vờ ngủ, tiếng rón rén của dì nghe rất rõ và dừng lại chiếc giường tôi thật lâu, bão đang dừng sau cánh cửa, lòng dì nổi một cơn giông. Tôi không mở mắt nhưng biết dì đang nhìn mình, hơi thở phà nhẹ trong âm u của một đêm tối trời. Tôi không đủ dũng cảm để níu giữ tay dì. Hạnh phúc về sau của dì tự dì sẽ phải đi tìm, như loài hoa muống biển một đời hướng ra bờ. Tôi nghĩ thế và giận cha vô cùng. Dì bỏ đi vì những cơn say triền miên của cha? Dì đã quá vất vả cho ngôi nhà này để rồi cuối cùng nhận công dã tràng. Sáng hôm sau, khi biển còn ngái ngủ trong phảng phất sương mù, tôi không biết biển có ngủ thật không, nhưng đêm qua cha chong đèn đến sáng. Tiếng dân chài bắt đầu trào ra như ong vỡ tổ. Lũ trẻ bỏ học, sớm thả trôi giấc mơ theo biển.

Sự thiếu vắng dì làm cha bừng tỉnh.

Buổi sáng cha dắt tôi ra biển, tối đến dì dắt tôi về phía mênh mông bằng ký ức chắp vá. Mênh mông của biển, mênh mông cát trắng, mênh mông của những mộng tưởng xa vời.

Cha nhấn chìm tôi trong nước biển mặn chát. Cha bảo sinh ra ở biển con phải biết bơi, để còn mưu sinh. Tôi quẫy đạp như thể con cá vướng trong mắt lưới. Tôi sặc nước tức tưởi mà cái đầu cứ vêu vao. Cha bảo: "Muốn nhìn lòng biển sâu thì cúi cái đầu xuống, biển cả mênh mông là vì nó chọn ở nơi thấp nhất". Tôi cãi cha, sao những năm tháng có dì cha không hạ cái tự cao của mình xuống, cha cao ngạo như chúa tể đại dương. Cha vung tay chắc nịch tát tôi một cú điếng người, trẻ con biết gì. Mỗi đêm khi cha ngước nhìn di ảnh của mẹ, tôi trộm nhìn và chẳng thể giận cha. Tôi biết người đàn ông đó cũng có lúc thẳm sâu như biển. Mẹ mất, cha dựng một chiếc lu chứa nước ngọt bên phải cửa ra vào. Cha dặn những thành viên trong gia đình, bước vào nhà thì dội rửa đôi chân cho sạch sẽ. Một lần dì quên bị cha mắng té tát, dì lặng im không nói, cúi xuống nhìn đôi chân lấm lem của mình. Tôi làm theo mà không hiểu hết ý cha.

Ngày khác, cha dạy tôi quăng chài. Cha cởi trần để lộ ra vồng ngực vạm vỡ, đường chài cha quăng ra mượt hơn mái tóc mẹ. Cha quăng như thể muốn vứt bỏ mọi ấm ức trong lòng, cha quăng cả sự trỗi dậy hàng đêm trào lên trắng xóa như bọt sóng.

Tuổi thiếu niên mà cơ thể tôi gầy đét như con mắm bị rút mất hồn cốt. Tôi tiếp thu nhanh những lời cha dạy nhưng chẳng đủ sức vung chài. Ảo vọng ruổi rong đè nặng hai vai. Cha không nói gì nhưng ánh mắt hiện lên nỗi thất vọng vô cùng.

Tôi sớm biết mình không thuộc về biển cả. Trong suốt tuổi ấu thơ tôi không có lấy một giấc chiêm bao biển, chỉ có đàn ngựa trắng kéo tôi ngược núi, xa dần tiếng ầm ào sóng vỗ.

Người làng kể, mẹ sinh tôi vào mùa hạ, trên đồi cỏ lông chông. Nắng vỡ trên đầu, cỏ lông chông lăn dài trong gió. Ngày ấy cha đang đánh cá ở một vùng biển xa xôi nào đó. Sau này, trong những câu chuyện gợi về ký ức, cha bảo đó là chuyến đi biển thất bại nhất trong đời. Đôi lần, tôi hoài nghi về mối liên quan giữa sự hiện diện của tôi và chuyến ra khơi đó. Sóng ký ức dò tìm vùng biển cha không gọi thành tên. Tôi oe oe tiếng khóc trên những búi cỏ tua tủa gai. Thân thể tôi ghim đầy hoa cỏ lông chông. Có phải vì thế mà sau này, tâm tính tôi cũng phủ đầy gai. Khi dừng ở một quãng nào đó trong đời, lúc ngoảnh lại, tôi thấy ai chạm vào mình cũng đều rỉ máu.

***

Dì về, tất bật công việc của những ngày xưa. Sáng mổ cá thuê, chiều về ủ mắm. Cha vẫn miệt mài đi biển.

Bữa cơm có dì về cũng tử tế hơn, có canh rau dền đất nấu tép, cá nục kho. Cha ăn nhiều hơn mọi khi. Lần đầu tiên tôi thấy cha gắp thức ăn cho dì. Một thoáng an ổn dâng lên trong lòng tôi. Nhìn thái độ của cha đối với dì, tôi hiểu, cha đã cố gắng thay đổi rất nhiều. Ăn xong cha đứng dậy đi ra trở nong cá khô, rồi một mai dì sẽ đóng gói đem ra chợ bán mua lấy mớ thịt tươi. Những bữa cơm ngon sẽ nối dài mãi. Tôi bỗng giật mình dứt khỏi ý nghĩ vẩn vơ khi dì hỏi, "con tính thế nào, T?". Lúc đó bước chân cha đã đi rất xa.

"Con vẫn vậy, dì. Có lẽ con sẽ lên thị trấn học nghề".

"Còn cha con thì sao?".

"Có dì về con sẽ yên tâm hơn" - Tôi đáp.

"Ý dì là cha muốn con bám biển".

"Con biết".

Dì im lặng.

Chiều về, bầu trời trong xanh đến lạ thường. Tôi nhớ có lần cha bảo đó là dấu hiệu sắp có bão. Phía xa, dì và cha đang vá lưới để tranh thủ kiếm chút cá tôm trong ngày biển động. Những chiếc thuyền thúng lênh đênh chuyên chở phận người. Trên đồi cát, đàn bò vàng kéo cánh đồng cỏ đi xa, dân du mục một đời đi tìm vùng đất mới, một thoáng trong đời thương những bước chân. Đêm về, tiếng kẽo kẹt của giát giường vì những lần trở mình khe khẽ. Tiếng trúc, tiếng tre gọi về thao thức.

"Đã là cơn bão thứ bao nhiêu hả dì?".

Dì lắc đầu bảo không nhớ.

***

"Con sẽ ra thị trấn học vẽ".

Tôi nói với cha vào một buổi sáng trời trong.

Cha không phản đối nhưng ánh mắt đượm buồn. Cha bảo, chọn cuộc đời ổn định, đừng sống kiếp phù du.

Được dăm bữa nửa tháng tôi lại trở về chỉ vì bất mãn với ông thầy dạy vẽ. Tôi nhớ mình đã gào lên như con sóng dữ, tôi quật đổ giá vẽ trước hàng chục đôi mắt khi ông thầy yêu cầu tất cả học viên phải khỏa thân lúc vẽ. Tôi không đợi ông ấy đưa ra một lý do nào đó thuyết phục cho yêu cầu bệnh hoạn này. Ông ta muốn biến chúng tôi trần truồng như đàn cá mắc cạn, quẫy đạp đi tìm vùng tự do. Ông túm lấy cổ áo tôi, này những loài không vây, hãy cầm cọ vẽ lên và bơi vào thế giới của chúng ta. Này T, thủy tổ của mi chẳng phải là loài cá sao? Ông ta gầm lên. Tôi chạy khỏi phòng tranh, sau lưng tôi là những mặt người mang thân hình loài cá. Cá đét, cá mối, cá đối, cá đù... bao cái tên xa lạ, đã có lần cha cáu gắt chỉ vì tôi không phân biệt nổi chúng.

Cú thất bại này như gáo nước lạnh dội vào mặt.

Đôi khi, thất bại của người này là niềm vui của kẻ khác. Lần này về, tôi chiều theo ý cha, học nghề đi biển. Ít ra lúc này, tôi thấy đó là lựa chọn an toàn, khi nghĩ tới khuôn mặt của ông thầy dạy vẽ. Cha cười to bảo thằng này khá. Dì cũng mỉm cười vì niềm vui của cha. Với kinh nghiệm mấy mươi năm đi biển của mình cha tin sẽ dạy tôi thành tài. Tài đâu chưa thấy nhưng tai họa đã phơi bày trước mắt. Tôi gỡ tay cha đang ghì nặng trên vai, không, con không cần cha dạy. Cha thay đổi sắc mặt, ý con là sao? Là con muốn tìm thầy, nghĩa là con sẽ không ở nhà. Cha bảo ừ, thế cũng được. Cha buông xuôi theo ý tôi như buổi chiều thả bóng mình trước biển.

Đã qua mùa vàng vọt của hoa cỏ lông chông mà tôi vẫn ghim vào lòng cha những muộn phiền ưu tư.

Dì chuẩn bị bữa cơm tối chia tay tôi lên đường "tầm sư học đạo". Bữa cơm có gỏi cá lá sung, đĩa rau lang luộc, và rượu. Rau khoai trái mùa nghe đắng chát trong miệng.

"Ngày mai con đi, cha và dì cứ an lòng".

Suốt mấy hôm tôi đi, ngôi nhà chẳng đổi khác. Chiếc gối vẫn im lìm mỗi giường một chiếc, chẳng đổi dời vị trí. Lần này tôi không hỏi, dì bảo bão đã tan thành áp thấp, sẽ có mưa trên diện rộng. Dì bảo tôi lên giường ngủ sớm. Tôi thở phào nhẹ nhõm.

Ngày mai tôi đi, cha sẽ chằng lại mái nhà tránh gió giật, gió lùa. Dì chạy ra vườn hái nốt trái bầu trái bí. Tối đến, đêm còn lại hai người là đêm ước nguyện, chúng cho tôi hy vọng đủ điều. Sự thật thì không có đàn cá nào tung quẫy hằng đêm. Cha vẫn quay mặt về bức vách, và phía bên kia là dì. Trên ban thờ, mẹ cười hiền như bà tiên.

***

Thầy dạy nghề của tôi tên Quỳ. Thầy bảo, "cứ gọi tao là lão Quỳ, tao chả dạy bảo chi ai, chữ thầy nó nặng lắm". Lão nói tiếp, "mà này, tao tên Quỳ nhưng cả đời đứng thẳng, chả biết quỳ trước ai". Lão Quỳ sống một mình trong căn chòi lợp lá cọ, nhà quay lưng hướng biển. Gặp tôi lần đầu, lão bảo, "về đi". Tôi lắc đầu không hiểu. "Mày không hợp nghề biển đâu con", lão nói. "Ánh mắt mày không kiên định, cả đời mắt tao nhìn luồng cá chạy nhưng nhìn người cũng không trật". Tôi năn nỉ mãi lão mới gật đầu khiên cưỡng. "Thôi mày ở lại, tao có người bầu bạn cũng vui".

Bài học đầu tiên lão dạy cho tôi không phải là biển cả. Lão đứng dậy, vặn bếp hâm nồi cá bống. Lão vừa rắc tiêu vừa lẩm bẩm: "Thương thay loài cá bống si tình". Lúc sau lão trở ra, cầm chai rượu trên tay. Mưa càng ngày càng nặng hạt, trời tối thui như mực. Đột ngột gió đổi chiều, hất mưa vào khiến lão đưa tay ra vuốt mặt, để lộ đôi mắt suy tư. Lần này lão cười khùng khục như mắc nghẹn. Nhìn lão, tôi không biết đã bao đêm ngồi một mình, lão bào mòn đời bằng những ký ức buồn như thế.

Đêm u u gió. Lão bảo, mỗi loài đều có tiếng nói, kể cả loài cá, đấy là kinh nghiệm đi biển lão đúc rút suốt bao năm. Lời kể của lão gợi nhắc tôi về câu chuyện của loài cá voi cô độc nhất hành tinh, nó cô đơn đến kiệt cùng trên con đường đi tìm kiếm tiếng nói đồng loại.

"Loài người đa thanh nên tiếng lòng cũng âm u", lão xoa xoa tay cho đỡ cóng, giọng khàn khàn. Đêm nằm giữa mênh mông sóng nước, với lão Quỳ, con ngựa hoang trong tôi lại lớn thêm lên. Ngày mai, tôi sẽ lại ra biển với lão Quỳ, mang tấm lưới trên vai dệt ước vọng xa vời. Khi bóng lão mất hút, tôi sẽ theo dấu chân trên cát. Và đến biển, tôi bắt đầu gọi to tên lão, bởi biển chẳng in dấu chân người.

Gặp lão, tôi như loài chim báo bão nghỉ chân bên hốc đá, cho một chuyến bay dài. Đêm xa nhà, tôi mơ thấy Thiên sứ trao cho dì đứa bé, và nhìn cha mỉm cười.

Con ngựa hoang trong tôi tung vó, đơn độc phi về đồng cỏ mênh mông. Và phía sau lưng, cỏ lông chông bắt đầu trổ mầm, không một dấu chân qua. 

Nguồn: https://thanhnien.vn/chiem-bao-bien-truyen-ngan-du-thi-cua-le-van-than-18525110816005123.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Dã quỳ nhuộm vàng phố núi, Đà Lạt vào mùa đẹp nhất năm
G-Dragon bùng nổ cùng khán giả trong đêm diễn tại Việt Nam
Fan nữ mặc váy cưới đến concert G-Dragon ở Hưng Yên
Mê mẩn vẻ đẹp Làng Lô Lô Chải mùa hoa tam giác mạch

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Mê mẩn vẻ đẹp Làng Lô Lô Chải mùa hoa tam giác mạch

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm