Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Chở theo đời sông…

VHXQ - “Sơn hà” là núi sông, để định hình, định vị cương thổ “xã tắc”. Bước ngoặt lịch sử mở nước, khi vượt Hoành Sơn mở đất phương Nam, chúa Nguyễn Hoàng đã nhận ra thế đất “yếu hầu”, rồi dặn dò đời sau phát dương xứ sở ôm trong lòng những ngọn núi dòng sông: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững chắc. Núi sẵn vàng sắt, bể cho cá muối, thật là đất để anh hùng dụng võ”. Nằm ở trung tâm cuộc đất đó, những dòng sông xứ Quảng, mang nặng phù sa lịch sử văn hóa.

Báo Đà NẵngBáo Đà Nẵng02/12/2025

Hội làng ở Trung Phước. Ảnh: NGÔ HÒA

Hội làng bên sông. Ảnh: NGÔ HÒA

Những Cu Đê, Túy Loan, Thu Bồn, Vu Gia, Trường Giang, sông Tranh, Tam Kỳ, Bến Ván… là những tên sông, bắt nguồn chính từ “sáu ngõ nguồn” mà người xưa đã mô tả trong mạch sơn hà xứ Quảng: “Hữu Bang sát núi Trà My/ Chiên Đàn nguồn ấy ở về phía trong/ Thu Bồn một dải quanh vòng/ Ô Gia thì ở trên dòng sông Con/ Lỗ Đông sát núi Cao Sơn/ Cu Đê thì ở gần hòn Hải Vân..”.

Phù sa châu thổ

Đốc học Trần Đình Phong (1847-1920) trong bài “Quảng Nam tỉnh phú” đã miêu tả cả hình thế và sắc màu phong cảnh những dòng sông:

“Hai dòng nước Sài Giang phát nguồn từ Tả Trạch
Mấy nhánh sông Kỳ Thủy chảy xuống cửa An Hòa
Trường Giang một dải bình sa, quanh co mấy khúc
Vĩnh Điện là con sông mới đào bởi công trình
Trà Úc sông nước trong xanh
Cẩm Lệ sông sâu dợn sóng
Sông Hà Lam sen mọc tốt tươi, mùi hương thơm nức
Sông Hòa Vang cò thường lặn lội sắc trắng phơi màu…”.

Chở theo đời những dòng sông ấy là bao biến thiên lịch sử xứ Quảng. Trong đó, “sông mẹ” Thu Bồn mang nặng đẻ đau ra vùng châu thổ phù sa trên lưu vực hơn 10 nghìn cây số vuông, là một trong những sông nội địa có lưu vực lớn nhất đất Việt. Có lẽ vì thế, phong thổ, văn hóa Thu Bồn đủ sức đại diện cho miền đất đầy trầm tích lịch sử, chảy một vệt từ Ngọc Linh chót vót, cao nhất Trường Sơn Nam, xuôi về Cửa Đại, Cửa Hàn, soi bóng bao làng mạc, đền tháp, trấn dinh, kinh thành, phố cổ...

Thu Bồn không chỉ là huyết mạch để hình thành văn minh nông nghiệp xứ Quảng mà còn là tuyến giao thương quan trọng kết nối cảng thị Hội An với vùng cao, nơi lưu dấu “con đường muối”, “con đường gốm”, “đường tơ lụa”…

Từ xa xưa, các thuyền buôn từng ngược dòng Thu Bồn đến Chiêm Sơn, Trà Kiệu, lên Giao Thủy rồi nối Vu Gia qua Bến Dầu, Hội Khách, tới cả Bến Giằng, để trao đổi hàng hóa. Những di tích lớn như Khu đền tháp Mỹ Sơn, Kinh đô Trà Kiệu, làng dệt Mã Châu, Dinh trấn Thanh Chiêm, gốm Thanh Hà, mộc Kim Bồng hay phố cổ Hội An đều nằm dọc theo Thu Bồn, như thể văn hóa nơi này được kết tinh từ nước, từ phù sa châu thổ mà thành hình.

Hồn thiêng vọng lại

Kể xa hơn về lịch sử xứ Quảng, không chỉ từ khi mở nước với Đại Việt mới hình thành văn hóa sông nước. Phải là hàng nghìn năm trước, đã có người cổ Bàu Dũ, Sa Huỳnh cư trú trên dải đất này, để lại đậm dày di chỉ mộ chum dọc theo Thu Bồn, Vu Gia, Trường Giang.., trong đó có vô vàn di vật ghi dấu hệ thống trao đổi ven sông, ven biển. Chuyện hai miền xuôi ngược đã sớm giao thương với nội vùng và ngoại biên, mà những nhà khảo cổ đã thực hiện nhiều chuyến khai quật, làm bật dậy tiếng người xưa vọng về, âm vang tới hậu thế lời ca “mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên”.

Điều kỳ bí là trong các mộ chum Sa Huỳnh đã phát hiện thủy tinh, mã não, hạt chuỗi giống từ Miến Điện, Ấn Độ mang sang, cho thấy dấu vết “con đường gốm - thủy tinh” trên Biển Đông nối liền Ấn Độ Dương thời cổ đại. Những Lạc Câu (ven Trường Giang), Lai Nghi, đến di chỉ Gò Dừa (Thu Bồn), lên tận Nông Sơn… đã tìm thấy đồ trang sức của người xưa, được đưa đi tùy táng, mang cả tín ngưỡng thiêng liêng.

Từ cư dân Sa Huỳnh đến Champa, dòng lịch sử nối tiếp qua những dòng sông thiêng, núi thiêng như cố GS.Trần Quốc Vượng đã phát hiện, rằng tiểu quốc Amaravati trải theo trục Tây - Đông là: Mỹ Sơn - Núi Chúa/Núi Răng Mèo - sông Thu Bồn - Thánh đô Trà Kiệu - Chiêm cảng/ Hội An và bình phong Cù Lao Chàm. Thiên Y A Na - Bà chúa Ngọc - Bà Phường Rạnh- Bà Thu Bồn - Bà Chợ Được, là sự hóa thân của Bà mẹ xứ sở, được thờ tự trong các di tích tín ngưỡng ven các dòng sông xứ Quảng.

Ngày nay mỗi năm người Quảng có lệ cúng đất, cúng kỳ yên, xuân kỳ thu tế thường ở dải ven sông, từ nguồn đến biển, đều nghe vọng bái lời nguyện cầu sông yên, biển lặng. Dẫu sông có khi nổi cơn cuồng nộ với lũ lụt tràn về, nhưng người vẫn tạ ơn thần sông mà: “Cung thỉnh thiên tai, ngoạt tai, thiên can địa chi, thập nhị thời thần. Niên ách, ngoạt ách, nhựt ách, tam thập lục hạng chư thần, ngũ phương, ngũ thổ chư thần.

Sơn xuyên dục tú - Hà hải chi trình
Hiển hữu công đức - Mẫn trừ anh linh
Hộ quốc trị dân - Ngưỡng hà hoàng ân
Phong tàng an dân lợi vật
Ích trương thiên hạ hòa bình…”.

Núi sông hun đúc nên sự tươi đẹp. Hành trình của sông lớn và biển cả là làm cho “an dân lợi vật”, hàm ý trong lời văn cúng “sơn xuyên dục tú” đó. Và không ngẫu nhiên mà vua Minh Mạng đã sớm điển chế hóa việc tế lễ thần sông, thần núi cho các “danh sơn đại xuyên” trên cả nước.

Không chỉ thiêng trong lễ hội, trong bài cúng bến nước vọng bái thần sông, bà thủy, mà sông còn có cuộc đi dài của giao thương, mở đường làm ăn kinh tế và tô bồi văn hóa.

Rồi bao nhiêu đất sét của sông, từ đất-nước-lửa nung thành gạch, gốm, dựng nên đền tháp, phố cổ, ngôi đình, cả kinh thành và mộ địa ngàn năm.

Rồi bấy nhiêu nghề nghiệp mưu sinh, từ dâu tằm, trồng lúa, đánh cá, đến ghe bầu đi buôn xa cũng qua những dòng sông mà nối kết mọi miền.

Chở theo sông là bề dày lịch sử vùng đất.

Chở theo sông là ký ức phù sa đời người…

Nguồn: https://baodanang.vn/cho-theo-doi-song-3312313.html


Bình luận (0)

Hãy bình luận để chia sẻ cảm nhận của bạn nhé!

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Nhà thờ Đức Bà TP HCM rực rỡ ánh sáng đón Giáng sinh 2025
Thiếu nữ Hà Nội "lên đồ" xinh lung linh cho mùa Giáng sinh
Bừng sáng sau bão lũ, làng hoa cúc Tết tại Gia Lai mong đừng cúp điện để cứu cây
Thủ phủ mai vàng miền Trung thất thu nặng sau thiên tai kép

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Phở 'bay' 100.000 đồng/bát gây tranh cãi, vẫn đông nghịt khách

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm