Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Chuyển đổi số và những vấn đề đặt ra trong quản lý xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long

TCCS - Cùng với cả nước, những năm gần đây, vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều chuyển biến trong tiến trình chuyển đổi số (CĐS) để nâng cao hiệu quả quản lý xã hội. Tuy nhiên, quá trình CĐS ở ĐBSCL cũng đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, cần sớm được nhận diện để từ đó đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý xã hội trên nền tảng CĐS, giúp ĐBSCL cùng cả nước vững vàng bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Tạp chí Cộng SảnTạp chí Cộng Sản31/05/2025

Kết quả về chuyển đổi số và xu hướng chuyển đổi số ở Việt Nam

Chuyển đổi số (CĐS) là xu hướng toàn cầu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…Về cơ bản, đây là quá trình (gồm số hóa và chuyển đổi) tích hợp công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các khía cạnh của một tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp liên tục, toàn diện làm thay đổi phương thức hoạt động và mang lại giá trị mới cao hơn. “Số hóa là chuyển toàn bộ hoạt động lên môi trường số, chuyển toàn bộ thế giới thực thành bản sao số, từ đó hình thành không gian sống mới - không gian số và sinh ra tài nguyên mới khổng lồ và vô vàn dữ liệu. Chuyển đổi là thay đổi tổng thể và toàn diện cách thức vận hành, hoạt động trên không gian số thông qua sử dụng công nghệ số (CNS), nhất là trí tuệ nhân tạo (AI), là xử lý dữ liệu để sinh ra giá trị mới”(1). Những xu hướng lớn của CĐS trên thế giới phổ biến hiện nay là: trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (Machine Learning), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), công nghệ blockchain, internet vạn vật (IoT - internet of things)… Trong lĩnh vực quản lý xã hội, CĐS là quá trình số hóa toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội, tạo ra dữ liệu trên nền tảng số để tối ưu hóa các hoạt động, tạo ra sự tiện lợi, minh bạch, bình đẳng, an toàn trong cuộc sống con người, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Cùng với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, CĐS được Đảng và Nhà nước ta xác định “đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”(2). Với nhận thức CĐS là một cuộc cách mạng mang tính toàn dân, toàn diện, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thúc đẩy quá trình CĐS hướng đến mục tiêu phát triển nền kinh tế số, xã hội số, chính phủ số, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và chất lượng cuộc sống của người dân(3). Đặc biệt, ngày 22-12-2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW, “về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Nhờ đó, những năm gần đây, tiến trình CĐS ở nước ta diễn ra mạnh mẽ, điển hình là những xu hướng lớn, như: tăng cường ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy (ML), đầu tư vào công nghệ chuỗi khối (blockchain), phát triển chính phủ điện tử và chính phủ số, đẩy mạnh chuyển đổi số trong doanh nghiệp gắn với xu hướng tự động hóa trong kinh doanh, thúc đẩy thanh toán số và thương mại điện tử, phát triển đô thị thông minh, phát triển mạnh interner vạn vật (IoT) và mạng 5G… Đến nay, công cuộc CĐS ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, điển hình là công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện được triển khai quyết liệt, đồng bộ với quyết tâm cao từ Trung ương đến cơ sở; nhận thức và các thể chế, cơ chế, chính sách về CĐS ngày càng được củng cố và hoàn thiện; chính quyền số, kinh tế số, xã hội số phát triển mạnh mẽ; hạ tầng số, nền tảng số được chú trọng đầu tư; xếp hạng và vị thế quốc tế của Việt Nam về CĐS liên tục được cải thiện(4).

Chuyển đổi số trong quản lý xã hội ở vùng đồng bằng sông Cửu Long

Vùng ĐBSCL chiếm khoảng 13% diện tích và 18% dân số cả nước, giữ vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh lương thực, đóng góp lớn vào sản lượng, giá trị nông nghiệp, thủy sản, xuất khẩu của Việt Nam. Trong xu thế chung của thế giới và cả nước, những năm gần đây, nhiều địa phương vùng ĐBSCL đã và đang đẩy mạnh quá trình CĐS trong nhiều lĩnh vực, từ đó tạo ra nhiều chuyển biến trong quản lý xã hội. Cụ thể là:

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Đến nay, các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã ban hành các nghị quyết, kế hoạch riêng về triển khai CĐS đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; ban hành bộ chỉ số đánh giá CĐS phù hợp với từng địa phương. Chính quyền các cấp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động; chữ ký số chuyên dùng đã được tích hợp vào hệ thống phần mềm quản lý văn bản tại các cơ quan, đơn vị và được triển khai thực hiện trong ứng dụng quản lý văn bản với kho bạc nhà nước, khai báo thuế, bảo hiểm xã hội… Với sự phát triển của các hệ thống quản lý số, các cơ quan hành chính dễ dàng thu thập, lưu trữ, xử lý lượng thông tin lớn từ nhiều nguồn khác nhau, nhanh chóng nắm bắt tâm lý, xu hướng xã hội, từ đó đề ra những biện pháp thích ứng kịp thời với những thay đổi trong cộng đồng. Mặt khác, đây cũng là điều kiện để huy động sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính quyền số.

Cải thiện chất lượng dịch vụ công. 100% cổng thông tin điện tử các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL hiện nay đều có chuyên mục CĐS, một số địa phương còn xây dựng cổng thông tin riêng về CĐS để chuyển tải kịp thời các chủ trương, chính sách về CĐS. Nhờ đó, nhận thức về CĐS của cán bộ, công chức, viên chức, người dân, doanh nghiệp ngày càng chuyển biến tích cực. Ở nhiều địa phương, người dân, doanh nghiệp thực hiện các thủ tục như xin giấy phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, nộp thuế, đăng ký kết hôn, khai sinh… thông qua các cổng dịch vụ công trực tuyến. Chính quyền từ cấp tỉnh đến cấp xã đã triển khai các ứng dụng di động giúp người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ công, cung cấp thông tin liên quan đến chính sách, pháp luật, kinh doanh, tình hình thời tiết, cảnh báo thiên tai, hướng dẫn sản xuất... Nhờ đó, áp lực lên hệ thống hành chính giảm, đồng thời tăng tính tương tác giữa chính quyền với người dân, doanh nghiệp.

Nâng cao năng lực quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Chuyển đổi số đã giúp các cấp chính quyền và người dân tăng cường khả năng giám sát, chủ động trong dự báo và ứng phó với các thách thức về tài nguyên, môi trường do tác động của biến đổi khí hậu. Ở nhiều địa phương, việc ứng dụng công nghệ IoT, dữ liệu lớn để giám sát môi trường, cung cấp dữ liệu thời gian thực về mực nước, độ mặn, điều kiện thời tiết; sử dụng các hệ thống cảnh báo sớm qua tin nhắn SMS hoặc ứng dụng di động giúp hàng triệu người dân chủ động trong sản xuất, kinh doanh; nhiều nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp chủ động điều tiết thời vụ sản xuất, giảm thiệt hại, rủi ro do thời tiết, xâm nhập mặn… nâng cao lợi nhuận. Các công nghệ số hóa công tác quản lý tài nguyên nước giúp các cơ quan chức năng dễ dàng theo dõi tình trạng của hệ thống thủy lợi, giám sát quá trình phân phối nước và thực hiện các biện pháp điều chỉnh kịp thời để bảo đảm nguồn tài nguyên nước cho sự phát triển bền vững của vùng.

Phát triển kinh tế số, nâng cao đời sống người dân. Nhiều địa phương ở ĐBSCL đã chủ động triển khai các chủ trương hỗ trợ doanh nghiệp CĐS để thúc đẩy phát triển kinh tế số. Bưu điện tỉnh Kiên Giang hỗ trợ nông dân, hợp tác xã đưa sản phẩm nông nghiệp của tỉnh lên Sàn giao dịch thương mại điện tử Postmart.vn. Tỉnh Tiền Giang có gần 87% doanh nghiệp công nghệ cung cấp dịch vụ viễn thông - công nghệ thông tin triển khai nền tảng số. Thành phố Cần Thơ đã xây dựng Sàn thương mại điện tử www.chonongsancantho.vn, giúp 17.800 nông hộ giới thiệu 200 loại nông sản lên sàn(5). Mặt khác, sự phát triển của các dịch vụ tài chính số như thanh toán trực tuyến, ví điện tử cũng giúp người dân vùng nông thôn, vùng xa dễ tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế phi chính thức.

Nông nghiệp, lĩnh vực kinh tế chủ chốt của ĐBSCL, được hưởng lợi đáng kể từ CĐS. Các ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp thông minh, như hệ thống tưới tiêu tự động, giám sát cây trồng bằng thiết bị bay không người lái (drone), hệ thống quản lý đất đai số,… giúp nông dân nhiều địa phương tăng năng suất, chất lượng, giá trị nông sản. Thông qua các sàn giao dịch trực tuyến, nhiều hợp tác xã nông nghiệp, nông dân ở ĐBSCL giờ đây dễ dàng tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng, với các nhà phân phối, giảm thiểu chi phí trung gian và tối ưu hóa lợi nhuận. Các nền tảng thương mại điện tử, ứng dụng di động, mạng xã hội đã tạo điều kiện cho hợp tác xã, nông dân dễ dàng tiếp cận thị trường, từ đó mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập.

Các chủ thể, doanh nghiệp ở Cà Mau quảng bá, giới thiệu các sản phẩm OCOP trên nền tảng số_Ảnh: TTXVN

Quản lý đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng. Nhiều đô thị ở ĐBSCL đã và đang sử dụng công nghệ số để giám sát và quản lý giao thông, cấp thoát nước, xử lý rác thải và cung cấp điện. Các hệ thống giám sát thông minh giúp giảm thiểu ùn tắc giao thông, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, bảo vệ môi trường. Việc xây dựng các cơ sở dữ liệu và bản đồ số về hệ thống kết cấu hạ tầng giúp chính quyền quản lý, bảo trì, phát triển các công trình công cộng hiệu quả hơn, nhất là đối với các đô thị đang phát triển nhanh nhưng bị sụt lún, thường xuyên bị ngập úng do lũ lụt, triều cường như Cần Thơ, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Long Xuyên,…

Tăng cường giám sát an ninh, trật tự và phòng, chống tội phạm. Ở nhiều địa phương vùng ĐBSCL những năm gần đây, tình hình an ninh, trật tự được cải thiện đáng kể nhờ CĐS. Việc ứng dụng các công nghệ giám sát an ninh, như camera thông minh ở nhiều xã nông thôn mới, hệ thống nhận diện khuôn mặt, phân tích dữ liệu giúp cơ quan chức năng quản lý tốt hơn tình hình an ninh, trật tự. Các công nghệ này cho phép theo dõi, phát hiện và xử lý các tình huống tội phạm, tai nạn giao thông nhanh chóng, chính xác. Ngoài ra, hệ thống cơ sở dữ liệu số về dân cư cũng giúp cơ quan chức năng theo dõi, giám sát tốt hơn các hoạt động tội phạm và ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật.

Tạo điều kiện cho người dân tham gia quản lý xã hội. Thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, diễn đàn trực tuyến, các ứng dụng di động, người dân ở nhiều địa phương vùng ĐBSCL dễ dàng trao đổi thông tin, đóng góp ý kiến và tham gia vào quá trình xây dựng chính sách công. Đến cuối tháng 9-2022, tất cả các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã thành lập tổ công nghệ số cộng đồng(6). Tổ công nghệ số cộng đồng tạo sự kết nối và sự tham gia của cộng đồng vào quá trình CĐS, được xem là “cánh tay nối dài” của ban chỉ đạo CĐS từ tỉnh đến cơ sở, đưa nền tảng số, công nghệ số, kỹ năng số đến với người dân. Việc tăng cường sự tham gia của người dân vào công tác quản lý xã hội thông qua CĐS không chỉ phát huy tính dân chủ mà còn giúp các cơ quan quản lý hiểu rõ hơn về nhu cầu và mong muốn của người dân, từ đó đưa ra những chính sách phù hợp hơn. Các kênh thông tin trực tuyến cũng giúp người dân dễ dàng tiếp cận và nắm bắt thông tin về các chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các dự án đầu tư công để chủ động cùng tham gia thực hiện.

Bên cạnh những tác động tích cực, quá trình CĐS trong công tác quản lý xã hội ở vùng ĐBSCL cũng đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức:

Thách thức lớn nhất mà các địa phương vùng ĐBSCL phải đối mặt trong tiến trình CĐS là hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, chưa đồng bộ. Việc xây dựng hệ thống công nghệ thông tin và mạng lưới số hóa của vùng còn chậm hơn nhiều so với nhiều vùng, miền khác trong nước. Tốc độ kết nối internet ở nhiều địa phương chưa ổn định, ảnh hưởng đến quá trình triển khai các ứng dụng công nghệ số; làm giảm hiệu quả của các chương trình quản lý xã hội dựa trên dữ liệu số và các dịch vụ công trực tuyến. Ngoài ra, nhiều khu vực ở ĐBSCL, đặc biệt là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vẫn chưa được phủ sóng mạng 4G, 5G đầy đủ, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp cận các nền tảng số, từ đó làm chậm trễ quá trình CĐS, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý xã hội.

Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin và CĐS cũng là một trở ngại lớn. Ở nhiều địa phương, cán bộ, công chức, viên chức chưa được đào tạo đầy đủ về các kỹ năng số; thiếu kinh nghiệm trong sử dụng các công nghệ số dẫn đến khó khăn trong việc ứng dụng và triển khai các giải pháp số hóa. Các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL vẫn còn thiếu nhân lực có kỹ năng số, từ đó làm giảm hiệu quả của quá trình xử lý thông tin, lưu trữ dữ liệu và ra quyết định dựa trên các công cụ số. Mặt khác, việc thu hút, giữ chân các chuyên gia công nghệ thông tin cũng là một thách thức lớn đối với nhiều địa phương. Nhiều người có năng lực trong lĩnh vực này thường di chuyển đến các vùng phát triển hơn để tìm kiếm cơ hội việc làm tốt hơn, khiến cho vùng ĐBSCL gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng đội ngũ chuyên gia cần thiết cho quá trình CĐS.

Tiến trình CĐS ở ĐBSCL chậm còn do tình trạng thiếu liên kết, phối hợp giữa các địa phương. Hiện nay, các địa phương ở ĐBSCL còn có cách tiếp cận và triển khai CĐS riêng, dẫn đến tình trạng manh mún, thiếu hiệu quả trong việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các tỉnh, thành phố trong vùng với nhau; giữa các cơ quan, đơn vị trong cùng một tỉnh, thành phố. Thực trạng thiếu liên kết dễ nhận thấy nhất là các cơ sở dữ liệu hiện có của vùng, nhất là trong khu vực công (như cơ sở dữ liệu về dân cư, về đất đai, về đăng ký doanh nghiệp, về nguồn lực tài chính…), đang bị phân mảnh, khó kết nối, chia sẻ. Các cơ quan không có sự phối hợp và chia sẻ dữ liệu một cách hiệu quả dẫn đến tình trạng trùng lặp thông tin, thiếu cập nhật hoặc sai sót trong các quyết định quản lý. Thực trạng này không chỉ làm chậm quá trình CĐS mà còn tạo ra sự bất cập trong việc ra quyết định và triển khai các chủ trương, chính sách, chương trình quản lý xã hội.

Việc đầu tư vào CĐS để nâng cao hiệu quả công tác quản lý xã hội đòi hỏi nguồn ngân sách lớn để xây dựng hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực… Tuy nhiên, hạn chế về nguồn ngân sách và khả năng thu hút đầu tư là một trong những cản ngại lớn trong tiến trình CĐS. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, với nguồn thu ngân sách hạn chế nên nhiều địa phương thiếu nguồn vốn đầu tư cho CĐS. Do chưa có đủ ngân sách để đầu tư vào các dự án số hóa nên nhiều các kế hoạch CĐS bị trì hoãn, khó thực hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả. Trong khi đó, việc thu hút các nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vào lĩnh vực công nghệ số gặp nhiều khó khăn, do các doanh nghiệp chưa mặn mà với nơi còn nhiều hạn chế, yếu kém về kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực như ĐBSCL.

Quá trình CĐS trong công tác quản lý xã hội không chỉ đơn giản là việc áp dụng các công nghệ mới, công nghệ số mà đòi hỏi sự thay đổi toàn diện trong quy trình hành chính và quản lý. Tuy nhiên, do văn hóa số chưa phổ biến, nhận thức về CĐS chưa đầy đủ nên một số lãnh đạo đơn vị, địa phương chưa thật sự vào cuộc để chỉ đạo quyết liệt; một số nhiệm vụ CĐS chưa được quan tâm triển khai thực hiện. Trong khi đó, mức độ tham gia của người dân, doanh nghiệp vào quá trình CĐS cũng còn thấp. Một bộ phận người dân, doanh nghiệp chưa có thói quen giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường số, hoặc sử dụng các ứng dụng số trong giao tiếp với chính quyền các cấp. Điều kiện tiếp cận công nghệ số, kỹ năng số của người dân ở nhiều vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, nhất là việc tiếp cận sử dụng các dịch vụ công trực tuyến (chưa có chữ ký số, thiết bị di động thông minh, tài khoản thanh toán điện tử…). Ở nhiều địa phương, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ công còn kém hiệu quả khiến người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ công trực tuyến, các ứng dụng trên môi trường số.

Thành viên tổ công nghệ số cộng đồng ở tỉnh Sóc Trăng hướng dẫn người dân cài đặt các ứng dụng VNeID, thanh toán không dùng tiền mặt, nhóm Zalo cộng đồng_Ảnh: TTXVN

Thúc đẩy chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả quản lý xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long

Cùng với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, CĐS được Đảng ta xác định “là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước ta phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới”(7). Đối với vùng ĐBSCL, để bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững, Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 2-4-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đề ra nhiệm vụ “Phát triển khoa học - công nghệ và đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế vùng”. Từ những chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước và xuất phát từ thực tiễn của quá trình CĐS trong công tác quản lý xã hội ở vùng ĐBSCL thời gian qua, để bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của vùng, thời gian tới cần quan tâm thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách về CĐS. Chính sách và khung pháp lý là nền tảng quan trọng để quá trình CĐS được triển khai thuận lợi, hiệu quả. Đồng bằng sông Cửu Long cần hoàn thiện các quy định pháp lý liên quan đến công nghệ thông tin, quản lý dữ liệu. Trong đó, chính quyền các tỉnh, thành phố trong vùng cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc chuyển đổi sang nền tảng số. Chú trọng việc cung cấp các gói hỗ trợ tài chính, ưu đãi thuế, tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý để doanh nghiệp triển khai các dịch vụ, ứng dụng số phục vụ xã hội. Đồng thời, thúc đẩy số hóa dịch vụ công, nhất là trong các lĩnh vực y tế, giáo dục - đào tạo, an sinh xã hội… Đây là cơ sở giúp tăng cường tính minh bạch, giảm thiểu tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tăng sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp.

Hai là, đầu tư hạ tầng kỹ thuật số hiện đại, đồng bộ. Các địa phương cần đầu tư mạnh cho việc xây dựng mạng lưới viễn thông với tốc độ cao và phạm vi phủ sóng rộng, đặc biệt là tại các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc mở rộng mạng lưới băng thông rộng sẽ thúc đẩy việc sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ xã hội như hành chính công, y tế, giáo dục - đào tạo, an sinh xã hội… Đồng thời, cần phát triển các trung tâm dữ liệu vùng lớn và hiện đại để lưu trữ, xử lý khối lượng dữ liệu lớn từ các hệ thống quản lý xã hội (như quản lý dân cư, thông tin đất đai, quản lý giáo dục - đào tạo, y tế...), giúp giảm thiểu độ trễ và tối ưu hóa tốc độ xử lý thông tin trong công tác quản lý. Việc đầu tư xây dựng nền tảng công nghệ điện toán đám mây cũng sẽ giúp các địa phương giảm chi phí cho việc triển khai các hệ thống quản lý xã hội, các cơ quan, tổ chức dễ dàng triển khai các ứng dụng quản lý, chia sẻ dữ liệu và tài nguyên an toàn, hiệu quả hơn.

Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực số. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong quá trình CĐS. Do đó, các địa phương cần quan tâm tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng về kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân. Nội dung đào tạo chú trọng các kỹ năng cơ bản về sử dụng công nghệ thông tin, an toàn thông tin, phân tích dữ liệu, ứng dụng công nghệ trong quản lý xã hội. Cần tạo cơ hội cho cán bộ, công chức, viên chức tham gia các hội thảo, tọa đàm, các chương trình giao lưu quốc tế để nhanh chóng tiếp cận kinh nghiệm, kiến thức mới trong lĩnh vực CĐS. Song song đó, có các chương trình phát hiện và phát triển nhân tài trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là những người am hiểu về điều kiện thực tiễn của vùng ĐBSCL gắn với phát triển kỹ năng số cho người dân, doanh nghiệp. Các chương trình đào tạo về kỹ năng số, từ việc sử dụng máy tính, điện thoại thông minh đến cách khai thác thông tin trên internet cần được triển khai rộng khắp để người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận và sử dụng.

Bốn là, đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) trong quản lý xã hội. Trí tuệ nhân tạo sẽ hỗ trợ việc tự động hóa các quy trình quản lý hành chính công, giảm bớt công việc giấy tờ, tiết kiệm thời gian và nâng cao độ chính xác, tin cậy. Trí tuệ nhân tạo cũng cần được sử dụng trong phân tích dữ liệu dân cư, dự báo nhu cầu xã hội, hỗ trợ quá trình ra quyết định của các cấp ủy, chính quyền. Tại ĐBSCL, việc sử dụng Big Data có thể hỗ trợ cho việc quản lý các vấn đề phức tạp như giao thông đô thị, quản lý đất đai, tài nguyên nước, ứng phó với biến đổi khí hậu, các hoạt động sản xuất nông nghiệp…. từ đó chủ động đề ra các giải pháp can thiệp kịp thời, tránh thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu. Mặt khác, Big Data còn hỗ trợ nâng cao hiệu quả trong hoạt động y tế, giáo dục như giúp cải thiện quy trình khám chữa bệnh, quản lý sức khỏe cộng đồng, tăng cường hiệu quả của các chương trình y tế công cộng, theo dõi và đánh giá quá trình học tập của học sinh…, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Năm là, tăng cường hợp tác công tư và hợp tác quốc tế. Mô hình hợp tác công tư (PPP) giúp huy động nguồn lực tổng hợp từ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tư nhân trong việc triển khai các dự án CĐS. Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ, có thể tham gia vào việc phát triển các ứng dụng quản lý xã hội, cung cấp dịch vụ số, hỗ trợ kỹ thuật cho các cơ quan nhà nước. Các địa phương vùng ĐBSCL cần xây dựng các chương trình khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các dự án CĐS, kèm theo đó là các chính sách ưu đãi, hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Đồng thời, việc tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, các quốc gia phát triển về công nghệ để tìm kiếm sự hỗ trợ trong ứng dụng công nghệ mới, đào tạo nhân lực để nhanh chóng tiếp cận, triển khai các giải pháp số trong quản lý xã hội là rất cần thiết.

Sáu là, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với chuyển đổi số. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực thúc đẩy CĐS. Các địa phương vùng ĐBSCL cần xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo và các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển công nghệ mới để khuyến khích các ý tưởng sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ thông tin phục vụ quản lý xã hội; hỗ trợ các dự án nghiên cứu khoa học - công nghệ để khuyến khích các cá nhân, tổ chức, viện nghiên cứu, trường đại học nghiên cứu và ứng dụng công nghệ số vào quản lý xã hội, nhất là những dự án mang tính thực tiễn cao. Đồng thời, đề ra các cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển các sản phẩm và dịch vụ số để phục vụ quản lý xã hội, như ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp, du lịch và các lĩnh vực khác; xây dựng không gian sáng tạo giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp, các cá nhân hợp tác và phát triển ý tưởng mới về CĐS.

------------------------------

(1) “Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra khái niệm AI hẹp, AI chuyên dụng, AI dùng riêng, AI nội bộ, AI cá nhân”, VietNamNet, ngày 11-9-2024, https://vietnamnet.vn/cac-doanh-nghiep-hay-su-dung-du-lieu-cua-chinh-minh-de-phat-trien-ung-dung-ai-2322177.html
(2), (7) Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/Uploads/2025/1/7/2/NQ-57-TW-BCT.pdf
(3) Như: Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị “về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”; Nghị quyết số 17/NQ-CP, ngày 7-3-2019, của Chính phủ, “về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025”; Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 411/QĐ-TTg, ngày 31-3-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”
(4) Tháng 9-2024, Liên hợp quốc công bố Việt Nam vươn lên vị trí thứ 71 trong xếp hạng Chính phủ điện tử, tăng 15 bậc so với năm 2022. Đây là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm EGDI "Rất cao", đạt mục tiêu xếp hạng Chính phủ điện tử năm 2024
(5), (6) Xem: Đặng Viết Đạt: “Chuyển đổi số ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long - thực trạng và giải pháp”, Trang thông tin điện tử cải cách hành chính thành phố Cần Thơ, ngày 10-7-2024, http://cchccantho.gov.vn/chuyen-doi-so-o-khu-vuc-dong-bang-song-cuu-long-thuc-trang-va-giai-phap

Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/1091002/chuyen-doi-so-va-nhung-van-de-dat-ra-trong-quan-ly-xa-hoi-vung-dong-bang-song-cuu-long.aspx


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

Khám phá rừng nguyên sinh Phú Quốc
Ngắm vịnh Hạ Long từ trên cao
Mãn nhãn pháo hoa đỉnh cao tại đêm khai mạc Lễ hội Pháo hoa quốc tế Đà Nẵng 2025
Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng 2025 (DIFF 2025) dài nhất trong lịch sử

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm