|
|
|
Ông Hồ Quốc Phú (ngồi) và tác giả |
Ông Hồ Quốc Phú (tên thật là Hồ Đắc Huyên), sinh năm 1927, quê ở Diên Lộc nay thuộc xã Lộc An, thành phố Huế. Năm 1947, khi Pháp trở lại xâm lược nước ta, ông tham gia du kích, sau đó thoát ly trở thành Trung đội trưởng thuộc Đại đội C321 do ông Thân Trọng Một chỉ huy.
Thi hành Hiệp định Genève 1954, ông tập kết ra Bắc và hồi kết sau khi Nghị quyết 15 lịch sử của Đảng ra đời. Trở về quê nhà, ông cùng đồng đội xây dựng lực lượng. Từ một đội vũ trang tuyên truyền ban đầu đã phát triển thành huyện đội.
Tuy còn rất non trẻ, nhưng sự xuất hiện của lực lượng vũ trang đầu tiên trong thời kỳ chống Mỹ là một sự kiện lịch sử quan trọng. Từ đây, Phú Lộc đã có thêm nhân tố mới để kết hợp hai lực lượng, hai hình thức đấu tranh: chính trị - quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp, báo hiệu phong trào cách mạng từ thụ động chuyển sang chủ động tấn công kẻ thù.
Vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ, lực lượng vũ trang địa phương do ông Hồ Quốc Phú làm Huyện đội trưởng; ông Hoàng Biên (Phạm Hữu Xuân, Phó Bí thư Huyện ủy) làm Chính trị viên đã đưa đơn vị xâm nhập đồng bằng, xây dựng cơ sở và trở thành lực lượng nòng cốt trong công tác diệt ác trừ gian, hỗ trợ Nhân dân đấu tranh chống lại chế độ bạo quyền do Mỹ hậu thuẫn.
Để báo hiệu cách mạng đã về, đêm 6/1/1960, ông cùng Chính trị viên Hoàng Biên trực tiếp chỉ huy đánh phá cầu Truồi. Sau tiếng nổ long trời, hai vài cầu sắt đổ gục. Tuyến giao thông huyết mạch Huế - Đà Nẵng bị gián đoạn nhiều ngày. Lịch sử quân sự địa phương ghi nhận, đây là trận đánh khởi đầu cho phong trào đấu tranh vũ trang ở tỉnh Thừa Thiên Huế, báo hiệu sau bao năm bị kìm kẹp, khủng bố, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân - dân ta đã kiên quyết chiến đấu chống lại chính quyền tay sai ở miền Nam.
Thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực thi quốc sách “Ấp chiến lược” nên đã gom dân vào các khu tập trung nhằm “tách cá ra khỏi nước”, thực chất là làm cho cách mạng mất chỗ dựa. Đồng thời, dựng lên hệ thống ngăn chặn, trong đó có đồn Mộ Lũng nằm ở KM3 thuộc đồn số 8 trên tuyến đường nối thị trấn Cầu Hai với dãy núi Bạch Mã. Tại đây, đối phương bố trí một trung đội biệt kích và 2 tiểu đội lính bảo an thay nhau dò tìm hậu cứ, canh giữ và tuần tiễu tìm cách ngăn lực lượng cách mạng xâm nhập đồng bằng.
Đêm 1/5/1962, dưới sự chỉ huy của Huyện đội trưởng Hồ Quốc Phú và Chính trị viên Hoàng Biên, lực lượng vũ trang Phú Lộc đã bí mật, bất ngờ mở cuộc tập kích làm cho 28 lính biệt kích và 24 lính bảo an đồn trú ở Mộ Lũng thiệt mạng.
Lo sợ ấp chiến lược bị phá, Chi khu Quân sự quận Phú Lộc đã điều động Tổng đoàn Bảo an - Dân vệ vào Lộc Vĩnh cưỡng ép Nhân dân các thôn: Cảnh Dương, Bình An, Đông An, Phú Hải phát quang bờ bụi ở khu vực Rú Ròn - nhằm không cho cán bộ, chiến sĩ cách mạng có nơi ẩn nấp.
Nhằm ngăn chặn âm mưu này, ngày 18/7/1962, Huyện đội Phú Lộc đã cử một trung đội phối hợp với du kích Vĩnh Lộc tổ chức tấn công. Bị đánh bất ngờ vào ban ngày, binh sĩ của Tổng đoàn Bảo an - Dân vệ hốt hoảng tháo chạy.
Sau khi chỉ huy đơn vị phối hợp với du kích đánh phá hầu hết các ấp chiến lược ở Phú Lộc, đầu năm 1964, ông Hồ Quốc Phú được điều sang Tiểu đoàn 810 (gọi tắt là K10).
Năm 1965, tại Thừa Thiên Huế, sau khi lập các căn cứ quân sự, binh sĩ Mỹ và binh sĩ Sài Gòn mở những cuộc hành quân hỗn hợp “tìm và diệt” và tiến hành “bình định nông thôn” làm cho phong trào cách mạng đối diện với vô vàn khó khăn, thử thách.
Để ứng phó với tình hình, năm 1966, Quân khu Trị Thiên được thành lập. Lúc này K10 và K4 chính thức được chuyển giao cho Tỉnh đội Thừa Thiên.
Phối hợp với đồng bằng phía nam, tháng 2/1966, Tỉnh ủy Thừa Thiên ra nghị quyết giải phóng 3 xã Ninh - Hòa - Đại (nay thuộc xã Quảng Điền và Đan Điền) nhằm đưa phong trào cách mạng tiếp cận vùng ven thành phố Huế. Cùng với lực lượng dân chính của tỉnh, huyện và du kích của 3 xã nói trên, K10 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Hồ Quốc Phú và Chính trị viên Phan Dũng đã trở thành nòng cốt của cuộc khởi nghĩa.
Trong khi K10 công đồn Nghĩa Lô và Lai Hà thì chiều 11/6/1966, các đội công tác của Ninh - Hòa - Đại phát động Nhân dân nổi dậy buộc đối phương phải tung Trung đoàn 3 (Sư đoàn 1 BB) phối hợp với Đại đội Hắc Báo và lực lượng địa phương quân có máy bay và xe tăng yểm trợ liên tục mở các cuộc hành quân nhằm tái chiếm những địa bàn đã rơi vào tay cách mạng. Sau 150 ngày đêm kiên cường bám trụ và đánh trả các đợt phản kích, đến tháng 11/1966, các xã Ninh - Hòa - Đại được giải phóng, tạo thế liên hoàn với vùng sâu Phong Điền và mở ra địa bàn để các đội công tác của Hương Trà, Huế đứng chân xây dựng lực lượng. Chưa kịp hưởng niềm vui khi Ninh - Hòa - Đại được giải phóng thì giữa tháng 8/1966, trong khi đang ở làng Niêm Phò (nay thuộc xã Quảng Điền) chỉ huy đơn vị đánh phản kích thì Tiểu đoàn trưởng Hồ Quốc Phú và Chính trị viên Phan Dũng đều bị thương và bị bắt.
Sau hơn 2 năm bị giam cầm, đầu năm 1969, ông Hồ Quốc Phú đã đào thoát khỏi nhà tù Phú Quốc.
Khi bị đưa ra nhà tù Phú Quốc chúng giam ông ở phòng số 13 thuộc phân khu B2. Phòng có tất cả 21 người, trước khi bị bắt phần lớn họ là sĩ quan và bị cai tù xếp vào loại “ngoan cố”. Nhờ có kinh nghiệm đào hầm vượt trại giam Non Nước - Đà Nẵng trước đó, nên ông Hồ Quốc Phú được Chi bộ phân công trực tiếp chỉ đạo việc đào hầm vượt nhà tù Phú Quốc.
Hầm dự kiến sẽ đào cách mặt đất khoảng 1,5 mét, rộng hơn 0,5 mét, dài chừng 120 mét; cách nhau dưới 10 mét trổ một lỗ thông hơi. Căn cứ vào thể trạng của từng người, ông phân thành 3 nhóm. Những người ốm yếu đóng giả bị bệnh lao ngồi chung một cụm để che miệng hầm, một nhóm làm nhiệm vụ cảnh giới, còn số khỏe hơn tham gia đào.
Tận dụng vật liệu có sẵn như muỗng xúc cơm, nắp cà-mèn, dây kẽm gai; đợi đêm xuống từng tốp 3 người thay nhau: người đào, người hốt đất cho vào túi; người còn lại kéo ra đổ vào nửa chiếc thùng phuy- nơi tiểu tiện vì tù nhân không được ra ngoài. Sáng hôm sau, trước khi đi đại tiện, theo y ước mỗi tù nhân tranh thủ lấy đất từ thùng phuy cho vào túi quần, sau đó tranh thủ đổ vào hố rác hoặc cầu tiêu; số đất còn lại đợi đêm xuống lẻn đưa lên mái tôn rải đều, nhờ mưa phi tang.
Đất đổ xuống làm cho nhà cầu bị tắc. Mượn cớ này, tù nhân phòng 13 xin đào đường dẫn nước khơi thông và xin tự cuốc đất trồng rau nhằm tạo hiện trường “phi tang” số đất đã đào. Khi đào, anh em đã dùng lưỡi lam cạo râu thả vô chén nước để xác định phương hướng và lấy hai ống thuốc tiêm thủy tinh nhọn ở hai đầu để cân bằng. Để tránh nguy cơ hầm bị sập ở đoạn có đường ô tô, thay bằng đào thẳng anh em đã đào theo hình dích dắc (z). Trải qua gần nửa năm kiên trì thực hiện, đường hầm dự kiến đã được đào xong. Nửa đêm về sáng ngày 21/1/1969, cuộc vượt ngục bắt đầu. Lần theo đường hầm bí mật, 21 tù binh ở phòng giam số 13 thuộc Phân khu B2 đã đào thoát khỏi nhà tù Phú Quốc trở về với cách mạng...
Nguồn:https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/chuyen-ke-ve-vi-huyen-doi-truong-dau-tien-cua-phu-loc-160948.html







Bình luận (0)