Thảo cúi người đeo lại chiếc ba lô, tay kéo mũ lưỡi trai sát trán. Trước mặt cô là một lối nhỏ bị cây bụi che khuất, vắt qua lưng đồi, nơi mà ông nội cô từng nhắc đến bằng giọng trang nghiêm nhất:
- Đó là dốc Lá Thẫm. Cả đơn vị rút qua đó. Không có đường ấy thì tao cũng không còn để kể cho mày nghe đâu.
Đã mười năm ông mất, Thảo chỉ còn lại một bản ghi chép tay với đôi dòng mực nhòe và lời kể đứt đoạn qua lời mẹ. Vậy mà bây giờ, cô lại một mình trở về đây, không hẳn để làm bài tập, không hẳn là tìm lại con dốc ấy.
Chiều xuống nhanh trên lưng núi. Nắng chỉ còn vệt mỏng vắt ngang cánh rừng hồi, khiến bóng người in trên đường đất cũng dài ra như đang cố với tới điều gì đã khuất. Thảo bước chậm, lưng áo thấm mồ hôi nhưng mắt cô không rời những vết lõm mờ trên mặt đất. Càng bước, lòng cô càng lặng như thể đang đi vào một chỗ đã có người đi trước, mà giờ chỉ còn lại tiếng thở dài trong gió. Thảo đi men theo lối đất dốc dẫn xuống cuối bản, nơi có căn nhà sàn mái cũ, rêu phủ một bên bậc thang. Đó là địa chỉ mà mẹ cô ghi trong tin nhắn cuối: Đến bản thì hỏi ông Khuyến. Ông còn nhớ nhiều lắm nhưng ít nói.
Nhà ông Khuyến nằm ở cuối bản Nà Lâm, dựa lưng vào sườn đồi, mái lợp tấm xi măng bạc màu, rêu mọc xanh cả hiên. Dưới bậc thềm đá, mấy chậu lá thuốc đang phơi, nghiêng nghiêng theo gió chiều. Tiếng chày giã cám vang nhè nhẹ từ nhà bên, chen vào một không gian rất vắng, đến mức Thảo nghe được tiếng chim vỗ cánh qua hàng mận bên rào.
Thảo rón rén bước lên bậc thang gỗ, lòng tay vẫn còn ẩm mồ hôi vì hành trình dài. Cô gõ nhẹ lên cột gỗ. Không ai đáp ngay. Chỉ có tiếng lửa lép bép trong bếp và tiếng dao cắt củi nhịp chậm phía trong gian nhà sàn. Thảo chưa kịp gọi lại lần hai thì một giọng đàn ông trầm, hơi khàn nhưng rõ, vang lên sau vách liếp:
- Cháu là đứa muốn tìm con dốc cũ, đúng không?
Cô giật mình.
- Dạ! Cháu là Thảo, cháu từ Hà Nội lên, là cháu ông Lộc từng ở đội du kích…
Giọng cô nhỏ dần, bị nuốt trong tiếng gió rừng lùa qua vách. Cô chưa biết nên nói gì thêm, thì từ trong gian nhà tối, giọng đàn ông lại tiếp tục:
- Cháu của Lộc, người thổi sáo giữa chốt núi à? Mày là đứa học sử, đúng không?
Thảo đứng im, sững người. Cô không ngờ ông biết, càng không ngờ có người còn nhớ đúng biệt danh cũ ấy, cái tên chỉ có đồng đội của ông nội cô mới gọi. Người đàn ông râu muối tiêu, lưng còng, chống gậy bước ra. Thảo gỡ ba lô, đứng lặng. Ông Khuyến ra hiệu bằng tay:
- Vào đi. Muốn hỏi về dốc, phải đi với tao. Nhưng không phải hôm nay.
Thảo gật, tay vẫn siết chặt quai ba lô.
- Dạ! Cháu muốn vẽ lại bản đồ dốc Lá Thẫm. Nếu ông còn nhớ đường rút lui năm ấy, cháu xin đi cùng.
Ông Khuyến nhìn cô, mắt nheo lại trong nắng nghiêng cuối chiều. Rồi ông cười, nụ cười móm mém:
- Nhớ thì nhớ nhưng đường ấy không còn nằm dưới chân đâu, nó nằm trong lưng tao, trong vết sẹo ở bắp chân này, trong cái đêm đi lùi để kéo người bị thương. Muốn vẽ thì không chỉ dùng tay, phải dùng tai và cả đầu gối.
Thảo gật nhẹ đầu. Cô chưa rõ hết những lời ấy, nhưng trong lòng, có gì đó vừa được đánh thức, một sự tin cậy hay một lời hứa thầm rằng con dốc cũ chưa biến mất, nếu còn ai dám bước lại bằng cả trái tim.
Sáng hôm sau, trời se lạnh. Gió từ rừng hồi thổi qua thung lũng, đưa theo mùi sương ẩm và nhựa lá non. Tiếng gà gáy rải rác từ đầu bản vọng về. Thảo dậy sớm. Cô gấp chăn, buộc lại sổ tay, cài máy ghi âm vào túi áo. Dưới bếp, ông Khuyến đã pha chè sớm, đôi dép cao su để gọn ở bậc dưới cùng của cầu thang, chiếc gậy trúc dựng cạnh chiếc mũ cọ sờn. Khi bước chân rời khỏi hàng rào cúc tần, Thảo nghe ông nói:
- Hồi đó tao lên dốc này mười bảy tuổi. Giờ đi lại, tao chín mươi tuổi. Nhưng đường không đổi nhiều đâu. Có chăng là mắt mình đổi.
Con đường mòn uốn lượn theo sườn núi. Thảo đi sau, cố tránh đạp lên những phiến đá phủ rêu dù chính ông Khuyến chẳng bao giờ dặn cô phải làm thế.
- Ngày ấy đi rừng không ai bẻ lá, chỉ gạt bằng tay áo. Không phải sợ lạc đường mà sợ để lại tiếng.
Đi khoảng một giờ, họ tới một phiến đá bằng phẳng chắn ngang lối nhỏ, rêu phủ đầy mặt, nhưng mép đá lõm xuống như có ai từng ngồi đó rất lâu. Ông Khuyến đứng lặng, đầu hơi nghiêng, mắt nheo lại.
- Chính chỗ này, năm đó có người bị thương. Không mang được họ đi theo. Mẹ tao để cái kèn ở chân đá này. Bảo là cắm vào đất một tiếng gọi. Lỡ ai sống sót còn biết đường quay lại.
Thảo nhìn quanh. Góc núi này gió không mạnh. Lá rừng phủ kín mặt đất. Giữa đám lá khô, phiến đá tròn cạnh, nứt chéo một đường như đường sống lưng người. Cô quỳ xuống, gạt nhẹ từng lớp lá, chạm vào đá lạnh và ẩm. Tay cô chạm vào một vết lõm vừa đúng khớp bàn tay, như thể từng có ai đặt tay y hệt thế này. Cô ngẩng lên, thì thấy ông Khuyến đã rút khăn buộc đầu, lau mồ hôi trên trán rồi nói khẽ:
- Nếu có cái gì còn nằm dưới kia thì là vì nó chưa muốn đi. Còn nếu không có gì thì cũng đừng tiếc. Vì chỉ cần có người quay lại, thì chỗ này không còn trống.
Mắt Thảo cay, dù gió thổi ngược. Cô thở chậm, đưa tay ra sau, lấy con dao nhỏ. Rồi tiếng mũi dao chạm trúng vật cứng. Âm thanh khô và đanh, không phải đá, cũng không phải gỗ. Cô run rẩy đào lên. Một mẩu kim loại xỉn màu hiện ra đầu cong, thân rỗng, nứt dọc. Đó là một chiếc kèn đồng gãy, hoen rỉ nhưng vẫn giữ hình dáng. Bên cạnh là một mảnh vải đỏ nhăn nheo, không còn nguyên, viền đã mục. Thảo bật khóc:
- Ông cháu là người đã đưa người bị thương ấy rời khỏi rừng sau đó và cũng là người chôn chiếc kèn cạnh tảng đá. Ông lúc nào cũng nhắc đến dốc Lá Thẫm.
Thảo bọc chiếc kèn bằng khăn vải, đặt lại trong túi. Lòng cô dâng lên thứ cảm giác nghèn nghẹn, như thể đã bắt được một tiếng gọi, nhưng không biết phải thổi ra sao cho đúng. Mặt trời lúc ấy vừa nghiêng qua vai rừng, hắt một vệt nắng lên phiến đá. Chiếc kèn dù gỉ vẫn ánh lên một chút vàng đỏ như mắt người từng đi lùi để giữ lại bước chân cho người sau.
Chiều buông nhanh khi hai người trở về bản. Con suối qua đầu làng rút nước, để lộ những phiến đá xanh như lưng cá nổi giữa lòng chảo ánh nắng cuối ngày. Ánh hoàng hôn tràn xuống mái nhà sàn, trượt trên những tấm liếp đan phơi thóc. Gió thổi thoảng mùi khói bếp và vỏ ngô cháy. Thảo rửa tay ở đầu hồi nhà rồi đem chiếc kèn gói trong khăn lên nhà ông Khuyến. Dân bản bắt đầu kéo đến. Có người tò mò, người đi theo tiếng đồn. Một bác trung niên hỏi:
- Cái ấy là thứ hồi khởi nghĩa dùng thật hả? Có chắc không cháu?
Thảo khẽ gật đầu:
- Cháu chưa dám khẳng định nhưng đúng vị trí trong lời kể. Nếu phục dựng tốt, cháu có thể xin đưa về trường làm mẫu di tích sống.
Tiếng xì xào vang lên. Một bà cụ đội khăn chàm nói nhẹ nhưng rắn:
- Nếu nó còn nằm trong đất thì là của đất. Người ta chôn nó ở đây vì không đem đi được. Sao bây giờ mình lại lấy?
Thảo thoáng giật mình. Cô siết nhẹ mép khăn bọc kèn.
- Nhưng nếu để ở đây, không ai biết thì nó mãi nằm im. Nếu mang về phục dựng, biết đâu nhiều người hơn sẽ nhớ, cháu nghĩ thế ạ.
Ông Khuyến mặt không biểu lộ điều gì. Chỉ khi đến gần chiếc kèn, ông nhìn ra cửa, phía xa là dãy núi, giọng đều đều:
- Người nằm lại rừng không cần ai nhớ họ, không cần xuất hiện ở bảo tàng. Họ cần ai đó đi qua đúng chỗ họ đã từng qua và hiểu vì sao họ đã làm những điều ấy.
Tất cả lặng đi. Thảo cúi đầu. Cô bối rối giữa trách nhiệm làm sinh viên sử học và tiếng gọi mơ hồ của đất, của rừng. Bà cụ già lại nói:
- Cô mang đi cũng được. Nhưng nếu một ngày có người về đây tìm cái kèn ấy thì sao?
Gió nổi lên, chiếc khăn đỏ phủ kèn khẽ tung một mép. Thảo nhìn xuống thấy rõ một đường nứt trên thân đồng và một vết bùn khô chưa gột hết. Cô bọc lại chiếc kèn cẩn thận nhưng không cất vào ba lô mà đặt vào tay ông Khuyến, khẽ nói:
- Cháu xin phép chụp ảnh để giữ lại kí ức cho gia đình cháu. Ông hãy mang ra bảo tàng địa phương để giao cho cơ quan quản lý nhé ạ!
Thảo dời chuyến xe trở về. Cô nộp đơn xin gia hạn nghiên cứu tại bản Nà Lâm, một quyết định khiến giảng viên hướng dẫn ngạc nhiên và mẹ cô gọi điện ba lần hỏi lại:
- Con tính ở đó làm gì? Lỡ không có kết luận nghiên cứu thì sao?
Cô chỉ đáp:
- Lịch sử không nằm trong báo cáo đâu mẹ.
Sáng hôm sau, cô cùng ông Khuyến dựng một bảng gỗ trên sàn phơi của nhà sàn, dán hình ảnh do cô in từ tài liệu: ảnh dốc Lá Thẫm, ảnh lá cờ. Chiếc kèn nằm trang trọng trên cái khăn chàm mới. Bọn trẻ kéo tới, đứa mang lồng chim, đứa địu em trên lưng. Thảo trải chiếu, không gọi đây là lớp học, chỉ nói rất nhẹ:
- Mấy đứa có biết, con đường các em đi hái sim hôm qua, từng là lối rút quân không?
Chúng lắc đầu, mắt nhìn chăm chú vào những tấm ảnh và chiếc kèn kì lạ. Giọng Thảo vẫn dịu như sương:
- Vậy hôm nay, chị sẽ kể chuyện đó. Nhưng phải ngồi im và nghe bằng cả tai và chân.
Lũ trẻ tò mò, lặng dần. Thảo dùng than củi vẽ sơ đồ trên tấm bảng gỗ.
- Đây là chỗ một người lính bị thương. Đây là nơi một người mẹ để chiếc kèn.
Ai bước qua chỗ đó nhớ cúi đầu.
Ông Khuyến ngồi bên, không chen lời, chỉ thi thoảng nhắc:
- Hồi đó không có bản đồ. Chúng tao nhìn sao trên trời và nghe tiếng mõ thôi.
Buổi chiều, Thảo dắt bọn nhỏ đi lại con dốc, mỗi đứa một viên đá đánh dấu đường. Có đứa hỏi:
- Chị ơi, người chết rồi có nhìn thấy em bước qua không?
Thảo khựng lại, nhìn lên tán cây lặng gió:
- Nếu em gọi đúng tên họ đúng nơi họ nằm xuống thì chắc họ nghe thấy.
Tối về, đứa bé gái mang theo nhành hồi non, đưa cho Thảo:
- Chị ơi, em bẻ ở chỗ cái kèn được chôn. Em cắm xuống đất, mai này nếu có ai lạc đường, cây sẽ chỉ về đúng con dốc để về bản.
Thảo cầm nhành hồi, tay run run. Tối đó, cô lấy sổ, không ghi “nghiên cứu sử học” mà viết một dòng khác: Con dốc không sống bằng chữ in, nó sống bằng bước chân nhỏ biết lặng im khi đi qua nơi từng có người nằm lại.
Một tuần sau ngày tìm thấy chiếc kèn cũ, bản Nà Lâm tổ chức một buổi lễ không có loa đài cũng chẳng ai phát biểu. Sáng sớm, mười mấy người trong bản, người già, vài thanh niên, lũ trẻ và Thảo cùng lên dốc Lá Thẫm. Họ mang theo một tấm đá phẳng lấy từ bờ suối. Mặt đá hơi nghiêng, đủ để đọng lại giọt sương mỗi sáng. Một chiếc khăn chàm phủ lên tạm thời. Chiếc kèn nằm trên phiến đá lớn. Thảo mang theo con dao khắc nhỏ. Khi khăn được gỡ xuống, cô cúi người, đặt tay lên mặt đá mát lạnh, rồi khắc từng chữ, chậm, đều, không ngoảnh lại. Không ai hỏi cô sẽ viết gì. Ông Khuyến chỉ ngồi trên rễ cây, hút thuốc lá cuốn tay. Khi nét khắc cuối cùng hoàn tất, Thảo lau bụi đá, lùi lại một bước. Mặt trời vừa ló khỏi rặng hồi, rọi xiên qua tán, ánh sáng lấp lóa như ai vừa thắp lửa. Trên tấm bia đá, chỉ có một dòng duy nhất: Từng có người lùi ở đây để hôm nay mình bước tới.
Không ai nói gì. Mấy đứa nhỏ cúi đầu. Bà cụ quấn khăn chắp tay vái về phía dốc Lá Thẫm. Gió rừng thổi nhẹ, lá rơi nghiêng như tiếng ai vừa rút lui qua lưng núi.
Nguồn: https://baolangson.vn/con-doc-cu-5062374.html

![[Ảnh] Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Lễ trao Giải báo chí toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực lần thứ 5](https://vphoto.vietnam.vn/thumb/1200x675/vietnam/resource/IMAGE/2025/10/31/1761881588160_dsc-8359-jpg.webp)



![[Ảnh] Đà Nẵng: Nước rút dần địa phương tranh thủ dọn dẹp](https://vphoto.vietnam.vn/thumb/1200x675/vietnam/resource/IMAGE/2025/10/31/1761897188943_ndo_tr_2-jpg.webp)


































































Bình luận (0)