Bước vào kỷ nguyên mới, nếu nhận thức đúng đắn sự biến động và thích ứng phù hợp với xu thế thời đại, ngành nông nghiệp nước ta sẽ biến nguy thành cơ để “vươn mình”, nâng cấp chuỗi giá trị nông sản, chuyển từ xuất khẩu thô sang sản phẩm chế biến sâu; xác lập thương hiệu nông sản xanh, bền vững; tạo lợi thế cạnh tranh quốc tế; tăng khả năng thu hút vốn đầu tư tài chính khí hậu, tín dụng xanh, tín chỉ carbon.
Thúc đẩy chuyển đổi số nông nghiệp, số hóa hộ nông dân, xác định mã vùng trồng, áp dụng IoT, blockchain, GIS. Đây là vừa là thách thức chưa từng có, vừa cơ hội vàng để Việt Nam xây dựng nền nông nghiệp “minh bạch - số hóa”, nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi cung toàn cầu.
Ông Hà Công Tuấn (phải), nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, thăm và làm việc tại Công ty TNHH MTV Cao su Chư Sê ngày 8/12/2025. Ảnh: Văn Vĩnh.
Những năm qua nông nghiệp Việt Nam thực hiện tái cơ cấu trong bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước diễn biến nhanh, có cả thuận lợi và bất ổn, khó lường, xu hướng kinh tế thay đổi mang tính thời đại; cùng với tác động sâu sắc bởi ảnh hưởng nặng nề, kéo dài của đại dịch Covid-19, thảm hoạ thiên tai. Nhưng với ý chí, khát vọng phát triển nhanh, bền vững, tư duy đổi mới, hành động quyết liệt, chung sức, đồng lòng, nên nông nghiệp nước ta đã đạt được những kết quả rất quan trọng và tương đối toàn diện.
Cơ cấu nội ngành nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, bước đầu phát triển theo hướng sinh thái, xanh, tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng hiệu quả xã hội; tiếp tục phát huy vai trò "trụ đỡ" trong nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Quản lý, sử dụng tài nguyên, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được tăng cường, năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu được nâng lên; chú trọng phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số... tạo động lực đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa.
Tuy vậy, nhìn nhận một cách khái quát nhất, thì ngành nông nghiệp Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có những mặt gay gắt, nặng nề hơn so với giai đoạn trước. Kinh tế nông nghiệp phát triển chưa bền vững; tư duy phát triển chưa theo kịp các xu thế phát triển của thế giới; phản ứng chính sách chưa kịp thời, chậm điều chỉnh và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, cần phải tiếp tục hành động quyết liệt hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình.
Bước vào kỷ nguyên mới trong bối cảnh toàn cầu hóa và liên kết kinh tế vẫn tiến triển; nhiều khó khăn mới, thách thức lớn, chủ nghĩa bảo hộ, chính sách thuế quan áp đặt, nguy cơ chiến tranh thương mại đi đôi với xu hướng điều chỉnh chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tiếp tục phát triển mạnh mẽ và tác động sâu sắc, công nghệ cao và trí tuệ nhân tạo phát triển đột phá chưa từng có; chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được thúc đẩy.
Nông nghiệp sạch nhìn từ “khu vườn” VinEco. Ảnh: Thanh Giang/Báo ảnh Việt Nam.
Xu hướng toàn cầu về giảm phát thải và chống mất rừng nhằm ngăn chặn ba thách thức môi trường trầm trọng về biến đổi khí hậu gia tăng nhanh chóng; mất rừng (Deforestation) và suy thoái đất diễn ra trên quy mô lớn; áp lực từ người tiêu dùng và nhà đầu tư yêu cầu sử dụng sản phẩm “xanh - sạch - không phá rừng” (Deforestation - Free).
Nhiều quốc gia, khu vực quốc tế đã và sẽ tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với thương mại nông sản hàng hóa sạch, an toàn sẽ tác động trực tiếp đến nhiều mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam, nhất là các sản phẩm cà phê, cao su, gỗ và sản phẩm, hồ tiêu, ca cao, thủy và hải sản. Nhiều quy định quốc tế áp đặt các rào cản phi thuế quan với trách nhiệm giải trình (due diligence statement), truy xuất về xuất xứ, nguồn gốc nông sản đến tận lô đất (plot-level) nhằm ngăn chặn nhập khẩu sản phẩm gây phá rừng, khai thác trái phép; thu hẹp chuỗi cung ứng chỉ còn lại những doanh nghiệp tuân thủ xanh, tạo động lực toàn cầu chuyển sang mô hình nông nghiệp bền vững (điển hình là Quy định chống mất rừng - EU Deforestation-Free Products Regulation, đánh bắt thủy sản không hợp pháp của Liên minh châu Âu).
Trước yêu cầu đặt ra cho ngành nông nghiệp phải nhanh chóng thích ứng với xu thế toàn cầu này, và nhận thức rõ chúng ta đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là thiếu cơ sở dữ liệu đất đai, nhiều hộ chưa có sổ đỏ, hoặc đất giao khoán chưa rõ ranh giới, chưa có hệ thống bản đồ số hóa thống nhất, biến động về rừng, đất chưa cập nhật kịp thời; quy mô diện tích sản xuất nhỏ, lẻ với trên 3 triệu hộ canh tác nông, lâm, thủy sản khó gom lô; chuỗi giá trị có nhiều loại hình trung gian (thương lái) khó ghi nhận dữ liệu và giám sát hành trình sản phẩm minh bạch.
Hệ thống quản trị quốc gia thiếu đồng bộ và nhiều khoảng trống về tiêu chuẩn, mã định danh, kiểm tra xuất khẩu, chế hợp tác lỏng lẻo nên chưa có một hệ thống tích hợp thống nhất toàn quốc. Thiếu nguồn lực công nghệ để thiết lập và triển khai GIS, gắn tọa độ vùng trồng, lưu trữ dữ liệu lớn, xây dựng hệ thống kiểm chứng... nguy cơ rủi ro cao.
Trong phòng thí nghiệm nghiên cứu các giống lúa chịu hạn, chịu mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Báo ảnh Việt Nam.
Bước vào kỷ nguyên mới, nếu nông nghiệp Việt Nam chủ động và tích cực nhận biết đúng đắn sự biến động và thích ứng phù hợp với xu thế thời đại, chúng ta sẽ biến thách thức thành thời cơ để “vươn mình”, đó là: Nâng cấp chuỗi giá trị nông sản, chuyển từ xuất khẩu thô sang sản phẩm chế biến sâu; xác lập thương hiệu nông sản xanh bền vững; tạo lợi thế cạnh tranh quốc tế; tăng khả năng thu hút vốn đầu tư tài chính khí hậu, tín dụng xanh, tín chỉ carbon tự nguyện và bắt buộc. Thúc đẩy chuyển đổi số nông nghiệp, số hóa hộ nông dân, xác định mã vùng trồng, áp dụng IoT, blockchain, GIS. Đây là vừa là thách thức chưa từng có, vừa cơ hội vàng để Việt Nam xây dựng nền nông nghiệp “minh bạch - số hóa”, nâng cao vị thế quốc gia trong chuỗi cung toàn cầu.
Chúng tôi cho rằng, ngành nông nghiệp cần sớm xác định được định hướng thích ứng, trong đó tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế, cơ chế, chính sách, lộ trình phát triển nhanh, bền vững với tầm nhìn trung và dài hạn trên cơ sở chủ trương, nghị quyết của Đảng, trong đó chú trọng một số ưu tiên sau:
Một là, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bền vững; phát triển các hình thức tổ chức sản xuất hiện đại trong nông nghiệp; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp; phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế phù hợp để xác lập mô hình tăng trưởng mới, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính để làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống.
Hướng đi bền vững của ngành chanh dây xuất khẩu Tây Nguyên (Gia Lai ). Ảnh: Thanh Hòa/Báo ảnh Việt Nam.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử; có cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội để phát triển các mô hình kinh tế nông nghiệp mới về kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chuyển mạnh phương thức xã hội hóa quản lý nguồn gốc nông sản, nhà nước chuyển căn bản từ tiền kiểm sang hậu kiểm trên cơ sở xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn chu trình sản xuất và chất lượng nông sản, cùng với nâng cao vai trò tự chịu trách nhiệm của các chủ thể kinh tế và tăng cường kiểm tra, giám sát của xã hội và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Trước mắt, cần khẩn trương ban hành quy định pháp luật về truy xuất địa lý trong nông sản; đồng bộ hóa các quy định của pháp luật về Đất đai 2024 và pháp luật về lâm nghiệp.
Bốn là, hoàn thiện thể chế để nâng cao năng lực tự chủ và hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi nhất thu hút đầu tư của các doanh nghiệp và xã hội vào nông nghiệp.
Năm là, hoàn thiện đồng bộ pháp luật, cơ chế, chính sách, quy hoạch về quản lý tổng hợp, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học, duy trì cân bằng sinh thái. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý có hiệu quả vi phạm pháp luật về tài nguyên, môi trường. Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, cơ chế ưu đãi quốc tế phục vụ chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Sáu là, nâng cấp chuỗi giá trị nông sản, xác lập thương hiệu nông sản xanh bền vững; tạo lợi thế cạnh tranh quốc tế. Trước hết cần tập trung thiết lập một số công việc:
- Xây dựng cơ sở dữ liệu đất - rừng - vùng trồng quốc gia (nên đặt tại Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Hỗ trợ nền tảng truy xuất miễn phí cho hộ nhỏ lẻ trên cơ sở rà soát và hợp nhất dữ liệu, cập nhật bản đồ hiện trạng thống nhất, chia xẻ và sử dụng chung, triển khai cấp mã số định danh cho từng thửa đất canh tác. Tiêu chuẩn GIS - dữ liệu - kiểm chứng. Số hóa toàn bộ chuỗi cung ứng áp dụng GIS mapping, Blockchain/QR truy xuất, hợp đồng điện tử.
- Xây dựng, ban hành quy định của nhà nước về Bộ tiêu chí vùng trồng; trách nhiệm của các thể chế kinh tế trong chuỗi giá trị nông sản. Chuẩn hóa bộ quy tắc nội bộ (Code of Conduct) về xác minh người trồng - vùng trồng. Chuyển từ mô hình thương lái sang mô hình liên kết: doanh nghiệp/hợp tác xã số hóa/tổ chức nông dân, FDI - doanh nghiệp Việt.
- Có cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người nghèo, nhất là đo đạc GPS, chuẩn hóa hồ sơ đất đai, đào tạo về sản xuất bền vững; vay tín chấp cho khu vực HTX. Khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận phù hợp.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/day-manh-ung-dung-cong-nghe-chuyen-doi-so-de-phat-trien-ben-vung-d789710.html






Bình luận (0)