Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Để tiếng chiêng hòa nhịp sống mới...

Nhìn nhận, đánh giá về những kết quả từ nỗ lực bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị Không gian văn hóa cồng chiêng của tỉnh Đắk Lắk không chỉ với niềm tự hào mà còn bằng những suy tư, trăn trở rằng phải làm gì để tiếng chiêng tiếp tục vang lên như một phần tự nhiên của đời sống cộng đồng chứ không chỉ trên sân khấu, phục vụ khách du lịch…

Báo Đắk LắkBáo Đắk Lắk23/11/2025

Đó là những ý kiến đầy tâm huyết được các đại biểu nêu lên tại Hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk (2005 - 2025), định hướng đến năm 2030 vừa diễn ra tại Bảo tàng Đắk Lắk.

20 năm qua, cùng với sự vận động của mọi mặt đời sống, chức năng văn hóa - xã hội của cồng chiêng đã dần thay đổi. Từ chỗ gắn chặt với các nghi lễ vòng đời người, vòng đời cây trồng, với bến nước, nương rẫy, nhà dài…, cồng chiêng dần bước ra khỏi không gian thiêng để hiện diện nhiều hơn trong các hoạt động giao lưu, liên hoan, sự kiện văn hóa, du lịch.

Các nhà nghiên cứu chỉ ra, sự dịch chuyển ấy vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Cơ hội, bởi cồng chiêng có thêm “đất diễn”, có điều kiện lan tỏa rộng hơn, tiếp cận với công chúng trong và ngoài nước. Nhưng thách thức là “tính thiêng” - phần lõi tinh thần của không gian văn hóa cồng chiêng lại dễ bị bào mòn, nếu cồng chiêng chỉ biểu diễn trên sân khấu, phục vụ du khách mà rời khỏi nền tảng tín ngưỡng, luật tục, tri thức bản địa.

Đội chiêng trẻ của buôn Kmrơng A, phường Tân An.

Ở góc nhìn này, Tiến sĩ Lương Thanh Sơn (nguyên Giám đốc Bảo tàng Đắk Lắk) nhấn mạnh vai trò sống còn của tri thức dân gian. Bà ví tri thức dân gian như chất keo kết dính, giữ cho không gian văn hóa cồng chiêng được duy trì bền vững: từ tri thức về nguồn gốc, chất liệu, cấu trúc từng bộ chiêng; kỹ thuật đánh, chỉnh âm; bài bản cho từng nghi lễ đến luật tục, tín ngưỡng gắn với nhà dài, bến nước, nương rẫy, khu mộ… Những người biết chỉnh chiêng, thuộc các bài chiêng cổ, nắm vững nghi lễ truyền thống chính là những “thư viện sống” của tri thức văn hóa.

Theo kết quả kiểm kê năm 2024, toàn tỉnh có 1.603 bộ chiêng, trong đó có 1.178 bộ chiêng Êđê, 219 bộ chiêng M'nông, 118 bộ chiêng J’rai và 88 bộ chiêng khác. Đặc biệt, có 3.749 nghệ nhân đang nắm giữ các loại hình di sản và có 1.015 nghệ nhân trẻ (biết tấu chiêng, biết đánh chiêng và biết chỉnh chiêng); trong đó có 948 nghệ nhân biết truyền dạy đánh chiêng.

Bề nổi là một lực lượng nghệ nhân đông đảo, nhưng bề sâu lại không ít lo ngại: số nghệ nhân được phong tặng các danh hiệu vinh dự Nhà nước còn rất khiêm tốn so với đóng góp thực tế, trong khi nghệ nhân cao tuổi mỗi ngày một yếu và thưa bóng dần.

Từ thực tiễn đó, Tiến sĩ Lương Thanh Sơn đề xuất coi việc ghi chép, số hóa, hệ thống hóa tri thức dân gian là nhiệm vụ cấp bách; xây dựng cơ chế đãi ngộ đặc thù cho nghệ nhân; đưa tri thức về cồng chiêng vào giáo dục lịch sử địa phương, hoạt động ngoại khóa trong trường học; tạo nhiều hơn các không gian thực hành di sản ngay trong cộng đồng, chứ không chỉ trên sân khấu hoặc trong bảo tàng.

Ở một khía cạnh khác, nhà văn Niê Thanh Mai (Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật Đắk Lắk) đề cập vai trò của giới văn nghệ sĩ như chiếc cầu nối giữa truyền thống và hiện đại. Qua các công trình nghiên cứu, sưu tầm sử thi, trường ca, truyện cổ; qua sáng tác văn học, âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu, nhiếp ảnh…, hình tượng cồng chiêng đã trở thành mạch nguồn cảm hứng, giúp di sản không bị “đóng khung” trong lễ hội, mà bước vào không gian sáng tạo đương đại.

Trong bối cảnh Chính phủ xác định phát triển công nghiệp văn hóa là một trụ cột tăng trưởng, Đắk Lắk đang xây dựng chiến lược giai đoạn 2025 - 2030 coi văn hóa và du lịch văn hóa là mũi nhọn. Từ những tham luận tại hội nghị, có thể thấy một nhận thức chung: Nếu biết khai thác đúng hướng, không gian văn hóa cồng chiêng không chỉ là “tiếng nói tâm linh của đại ngàn”, mà còn là nguồn lực quan trọng cho công nghiệp văn hóa, du lịch cộng đồng, sinh kế bền vững của chính những người đang giữ lửa di sản.

Cồng chiêng trong Lễ cúng lúa mới của cộng đồng người Xê Đăng ở buôn Kon H'ring, xã Cư M'gar.

Phía sau những con số thống kê kết quả bảo tồn di sản văn hóa cồng chiêng còn có không ít nỗi niềm trăn trở. Các ý kiến đại biểu đã đôi lần nhắc đến sự diễn biến về “ngoài lề hóa” cộng đồng chủ thể di sản. Một cảnh báo không mới, nhưng chưa bao giờ hết tính thời sự.

Nhà nghiên cứu Linh Nga Niê Kđăm (nguyên Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật Đắk Lắk) chỉ rõ, thay đổi tín ngưỡng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, di cư lao động, bùng nổ công nghệ số, sức hút của âm nhạc hiện đại… đang thu hẹp rất nhanh môi trường thực hành nhạc cụ truyền thống. Một bộ phận thanh thiếu niên không còn nhiều thời gian, cũng ít hứng thú với những giá trị cha ông để lại trong khi giáo dục văn hóa dân tộc trong nhà trường còn nặng lý thuyết, thiếu trải nghiệm.

Không ít đội chiêng, câu lạc bộ được thành lập theo chương trình, dự án nhưng thiếu kinh phí, thiếu người “giữ lửa”, chỉ hoạt động cầm chừng rồi dần tan rã. Nếu công tác quản lý di sản vẫn thiên về “Nhà nước làm thay, làm hộ”, nếu lễ hội, liên hoan chỉ dừng lại ở phong trào thì rất dễ dẫn tới một viễn cảnh: tiếng cồng chiêng bị “sân khấu hóa”, tách rời khỏi không gian tín ngưỡng và sinh hoạt truyền thống - nơi di sản từng được sinh ra.

Mang tâm tư của người nghệ nhân đến từ buôn làng, anh Y Bây Kbuôr (Trưởng buôn, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn nghệ dân gian buôn Kmrơng A, phường Tân An) lo lắng khi thấy nhiều bạn trẻ bị cuốn vào nhịp sống hiện đại; những đêm quây quần bên bếp lửa, bên dàn chiêng cũng thưa thớt hơn trước. “Tôi sợ một ngày nào đó, cồng chiêng chỉ còn nằm im trong bảo tàng, không còn vang lên bên bếp lửa, bên nương rẫy như xưa nữa…”, anh Y Bây nói và mong muốn chính quyền các cấp tiếp tục quan tâm hỗ trợ thêm những bộ chiêng tốt cho buôn làng; hỗ trợ tổ chức các lớp truyền dạy thường xuyên cho thanh thiếu niên; tạo điều kiện để nghệ nhân gắn bó lâu dài với việc gìn giữ, truyền dạy chiêng. Theo anh, chỉ khi kéo được các bạn trẻ trở về bên dàn chiêng, bên ché rượu cần để hiểu và tự hào về cái hồn của ông bà, thì tiếng chiêng mới thực sự "sống" trong đời sống của buôn làng.

Những trăn trở ấy, từ góc nhìn khoa học của các nhà nghiên cứu văn hóa đến tiếng nói của nghệ nhân, một lần nữa khẳng định rằng: Mục tiêu cuối cùng của bảo tồn không chỉ là giữ lại tiếng chiêng trong hồ sơ, bảo tàng hay trên sân khấu, mà là để tiếng chiêng tiếp tục vang lên, hòa cùng nhịp sống mới của buôn làng hôm nay…

Nguồn: https://baodaklak.vn/van-hoa-du-lich-van-hoc-nghe-thuat/202511/de-tieng-chieng-hoa-nhip-song-moi-b250126/


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Quán cà phê Hà Nội hóa trời Âu, phun tuyết nhân tạo, hút khách
Cuộc sống 'hai không' của người dân vùng lũ Khánh Hoà trong ngày thứ 5 chống lũ
Lần thứ 4 thấy núi Bà Đen rõ ràng hiếm gặp từ TP.HCM
Mãn nhãn cảnh đẹp Việt Nam trong MV Mục hạ vô nhân của Soobin

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Hà Nội xao xuyến mùa hoa 'gọi đông' về phố

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm