
Người thân của Liệt sĩ Lê Văn Quảng cùng đọc lại những lá thư được viết cách đây hơn 50 năm.
Trong căn nhà nhỏ ở thôn Thịnh Hòa, xã Hoằng Thịnh cũ (nay là xã Hoằng Lộc), ông Lê Văn Nghiêm – một đại tá công an đã nghỉ hưu lật mở những lá thư đã nhuốm màu thời gian – những chứng nhân lặng lẽ của hơn nửa thế kỷ chiến tranh và chia ly. Khi những dòng chữ trong thư được đọc lên cũng là lúc sống dậy những ký ức về người em út, người chú của gia đình: Liệt sĩ Lê Văn Quảng (1949–1971).
Liệt sĩ Lê Văn Quảng là con trai út trong một gia đình thuần nông ở thôn Thịnh Hòa, xã Hoằng Thịnh cũ. Bố ông làm thợ xây, mẹ quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Trong 4 anh chị em, ông là người duy nhất được học hết lớp 7.
Năm 1966, ở tuổi 19, chàng trai trẻ mang theo hoài bão rời quê ra Bắc Thái theo học Trường Trung học cơ khí luyện kim gang thép. Nhưng chỉ 2 năm sau, giữa lúc đất nước bước vào giai đoạn kháng chiến quyết liệt nhất, ông đã gác lại con đường học hành, tình nguyện lên đường nhập ngũ cùng lớp lớp thanh niên thời bấy giờ.
|
Trong những dòng chữ viết cho gia đình, vẫn nguyên hình bóng người chú út của hơn nửa thế kỷ trước: dáng người cao, gương mặt hiền lành. Chú ít nói mà chân tình, lúc nào cũng dành sự quan tâm lặng lẽ và ấm áp cho người thân. |
“Hồi đó, gia đình chỉ biết tin chú đi bộ đội qua những lá thư gửi về” - ông Nghiêm nhớ lại - “Chú kể chuyện huấn luyện, kể về lý tưởng, về quyết tâm của một người lính trẻ. Chú còn dặn bố tôi giữ gìn cẩn thận giấy chứng nhận học lực để sau này khi đất nước thống nhất, chú sẽ trở về và tiếp tục đi học...”.
Đến tận bây giờ, mỗi lần mở những lá thư, các cháu của liệt sĩ Quảng vẫn không giấu nổi nỗi nghẹn ngào bởi trong những dòng chữ viết cho gia đình, họ vẫn thấy nguyên hình bóng người chú út của hơn nửa thế kỷ trước: dáng người cao, gương mặt hiền lành, còn có một vết sẹo ở nhân trung do một lần bị bệnh khi còn nhỏ. Chú ít nói mà chân tình, lúc nào cũng dành sự quan tâm lặng lẽ và ấm áp cho người thân. Kỷ niệm nhớ nhất trong họ là buổi ông ghé thăm nhà trước khi lên tàu đi vào chiến trường miền Nam.
“Đoàn tàu năm ấy dừng ở ga Thanh Hoá. Chú chạy bộ tắt qua cánh đồng để kịp về thăm nhà. Chú chạy vào nhà tìm ông bà, tìm bố mẹ tôi nói chuyện chưa được bao lâu đã vội đi luôn cho kịp tàu... Thấy tôi đang chơi ở sân, chú kịp chạy lại xoa đầu dặn đúng một câu: Chơi ngoan, chú đi nhé, lần sau về chú mua kẹo! Lúc đó tôi cứ đứng ngẩn ngơ nhìn theo hình bóng chú trong bộ quân phục ướt đẫm mồ hôi chạy thấp thoáng trên cánh đồng ngô trước nhà!” – khi ấy Đại tá Nghiêm mới 12 tuổi, ký ức ùa về theo lời kể rành rẽ như mới hôm qua.

Ông Lê Văn Nghiêm vừa đọc thư, vừa nhớ lại những kỷ niệm về người chú ruột - Liệt sĩ Lê Văn Quảng.
Trước ngày hành quân vào Nam, Liệt sĩ Lê Văn Quảng có hơn 4 tháng huấn luyện trên đất Bắc. Đó cũng là quãng thời gian những lá thư của ông được gửi về với gia đình, trang nào cũng nắn nót từng dòng chữ ngay ngắn, lễ phép. Ẩn sau nét bút hiền hòa là một tấm lòng hiếu thuận với cha mẹ, tình cảm gắn bó với anh chị em và sự trìu mến vô hạn dành cho những đứa cháu nhỏ.
|
... từng dòng chữ ngay ngắn, lễ phép. Ẩn sau nét bút hiền hòa là một tấm lòng hiếu thuận với cha mẹ, tình cảm gắn bó với anh chị em và sự trìu mến vô hạn dành cho những đứa cháu nhỏ. |
“Nghiêm – Chỉnh – Huấn – Luyện (tên 4 người cháu - PV) ngoan nhé! Nghiêm cố gắng học giỏi cháu nhé. Bất kể ai hỏi bảo chú đi đánh Mỹ và xây dựng trong Nam rồi nhé. Học giỏi sau này vào Nam xây dựng xã hội với chú nhé!”.
Khi đặt chân đến chiến trường miền Nam, ông viết cho gia đình 1 lá thư vào ngày 25/7/1969. Đây cũng là lá thư cuối cùng gia đình nhận được từ ông.
“Thầy mẹ – bác – anh, chị kính mến!
Các cháu thương yêu của chú út!
Con của gia đình hôm nay ngồi đây nơi miền Nam đất Việt xa xôi muôn dặm, biên lá thư về thăm sức khoẻ của bác, thầy mẹ, anh và các chị, các cháu trong toàn gia quyến luôn mạnh khoẻ, trẻ, công tác đạt nhiều thành tích vẻ vang là em mừng nhất! ...
Chỉ vì Mỹ – Nguỵ độc ác đã gây nên cảnh con xa cha mẹ, em xa các anh chị như vậy đấy. Thế nhưng chỉ một ngày không xa nữa thì gia đình lại được sum họp đông vui thôi thầy mẹ ạ. Con chỉ mong sao thầy mẹ, bác hãy khoẻ, sống để hưởng những ngày Bắc – Nam thống nhất, ngày mà con trở về quê cha đất tổ...”.
Trong lá thư gửi về từ chiến trường, ông tâm sự và dặn dò người thân khi đã nhìn thấy con đường mình phải đi:
“Anh và các chị ạ! Chắc anh và các chị cũng mong ở tương lai em nhiều cả về mọi mặt thì phải. Nhưng em biết bước đường em đi đã, đang và sẽ còn gặp nhiều gian nguy lắm anh, chị ạ!... Giờ đây chỉ có một điều em muốn nói, thầy mẹ đã già yếu cả, em tin tưởng dù sao chăng nữa cũng đã có và còn anh, các chị để em trong chiến đấu dù có phải đổ máu cũng yên lòng. Thầy mẹ cũng không có gì ân hận với đứa con bất hiếu này nữa khi đã về già...”.
Mỗi trang thư như một “lát cắt” của quá khứ gửi về hiện tại.
Cũng từ đó, không còn thấy lá thư nào được gửi về. Gia đình bặt tin ông, để rồi 2 năm sau, tin ông về - trong tấm giấy báo tử.
“Chú hy sinh khi mới 22 tuổi, mang theo bao dự định còn dang dở, những lời hứa chưa kịp trọn vẹn với người thân. Đến giờ, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy mộ chú...” – ông Nghiêm nghẹn lại, giọng trầm xuống, hòa trong gió chiều lành lạnh ghé ngoài hiên.

Lá thư cuối cùng là manh mối ít ỏi để người thân lần tìm nơi Liệt sĩ Lê Văn Quảng hy sinh, mong đưa ông trở về với quê hương.
Giờ đây, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, những lá thư nhuốm màu thời gian ấy là tất cả những gì gia đình còn lưu giữ về liệt sĩ Lê Văn Quảng. Mực đã nhòe, giấy đã úa, nhưng mỗi trang thư như một “lát cắt” của quá khứ gửi về hiện tại – chan chứa tình thân, khát vọng hòa bình và niềm tin mãnh liệt vào ngày đất nước thống nhất.
Chú hy sinh khi mới 22 tuổi, mang theo bao dự định còn dang dở, những lời hứa chưa kịp trọn vẹn với người thân. Đến giờ, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy mộ chú...
Với gia đình ông Nghiêm, những lá thư không chỉ là kỷ vật thiêng liêng của người chú út, mà còn là những manh mối ít ỏi để lần tìm nơi ông yên nghỉ, mong đưa ông trở về với quê hương.
“Chú tôi nhập ngũ tháng 6/1968, hy sinh ngày 9/1/1971. Lần theo thông tin trong lá thư cuối cùng, gia đình đã nỗ lực tìm kiếm thông tin và bước đầu được biết, chú bị tập kích khi làm nhiệm vụ ở vùng Som Rong, Campuchia và bị thương. Ông được chuyển về trạm xá xã Châu Thành, tỉnh Tây Ninh cứu chữa nhưng không qua khỏi và được an táng tại nghĩa trang địa phương. Gia đình đã gửi đơn đề nghị xác minh thông tin tại Nghĩa trang liệt sĩ Châu Thành và hiện có 1 phần mộ có tên Lê Văn Quảng. Hiện, gia đình đang hoàn tất thủ tục giám định ADN để xác định danh tính liệt sĩ ....”, ông Nghiêm cho biết thêm.
|
Trong những năm tháng khói lửa chiến tranh, những lá thư tay trở thành nhịp cầu duy nhất nối hậu phương với tiền tuyến. Từ trong ngăn kéo thời gian chất chứa những mảnh ký ức giản dị và cũng thật thiêng liêng ấy, chúng tôi xin được kể lại vài mẩu chuyện về một thế hệ “ra đi không tiếc cuộc đời mình”, đã sống, đã yêu, đã hiến dâng tuổi xanh để tạc nên dáng hình đất nước. Câu chuyện tiếp sau, cũng là bức thư cuối cùng của một liệt sĩ Công an nhân dân, từ bấy chưa về. Đọc thư liệt sĩ, để thấm thía hơn rằng, tình yêu Tổ quốc từ trong huyết quản khởi nguồn từ yêu thương vô bờ dành cho gia đình. |
Việt Hương
Bài 3: "Còn nhiều khó khăn, gian khổ nhưng em hãy tin ở anh, bởi vì anh tin Đảng..."
Nguồn: https://baothanhhoa.vn/di-thu-cua-nguoi-linh-bai-2-thay-me-bac-hay-khoe-song-de-huong-nhung-ngay-bac-nam-thong-nhat-ngay-ma-con-tro-ve-que-cha-dat-to-271816.htm






Bình luận (0)