Phát biểu khai mạc, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Dũng cho biết, trong nhiều thập kỷ, chúng ta đã chứng kiến sự định hình và phát triển mạnh mẽ của các chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, bối cảnh thế giới hiện nay đang thay đổi nhanh chóng hơn bao giờ hết.
Sau đại dịch COVID-19, cùng với những biến động địa chính trị và sự gia tăng của các yêu cầu về phát triển bền vững (ESG), chuỗi cung ứng toàn cầu đang đứng trước một cuộc tái cấu trúc sâu rộng. Các quốc gia và tập đoàn lớn không còn chỉ tìm kiếm nơi có chi phí nhân công rẻ, mà họ đang tìm kiếm sự ổn định, tính bền vững, khả năng chống chịu và sự minh bạch.
Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Dũng.
Trong bức tranh đó, Việt Nam nói chung và TP Hồ Chí Minh nói riêng, đã và đang khẳng định vị thế là một trung tâm sản xuất quan trọng, một mắt xích tin cậy trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chúng ta có sự ổn định về chính trị, nguồn nhân lực dồi dào, và vị trí địa lý chiến lược.
Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đối mặt với những thách thức không hề nhỏ. Đó là ngành sản xuất của chúng ta phần lớn vẫn dựa vào gia công, lắp ráp, có giá trị gia tăng thấp; năng suất lao động cần được cải thiện mạnh mẽ hơn nữa để bắt kịp với các tiêu chuẩn quốc tế; áp lực về chuyển đổi xanh đang hiện hữu. Các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ đang áp dụng những "luật chơi" mới, chặt chẽ hơn về môi trường, như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Nếu không "xanh hóa" sản xuất, hàng hóa của chúng ta sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh.
"Bối cảnh này đặt ra một mệnh lệnh cấp bách doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới. Chúng ta không thể tiếp tục cạnh tranh bằng lợi thế cũ. Đã đến lúc phải và chuyển đổi mô hình sản xuất", ông Dũng nhấn mạnh.
Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh chia sẻ, sản xuất thông minh, với việc ứng dụng mạnh mẽ của AI, IoT, Big Data, và tự động hóa, không chỉ giúp tối ưu hóa vận hành, cắt giảm chi phí. Nó còn là chìa khóa để "số hóa" chuỗi cung ứng, giúp truy xuất nguồn gốc minh bạch, và quan trọng hơn, là công cụ để đo lường, kiểm soát và giảm thiểu phát thải carbon, hiện thực hóa mục tiêu "sản xuất xanh".
"TP Hồ Chí Minh đang nỗ lực hết mình để tiên phong trong làn sóng chuyển đổi này. Thành phố xác định phát triển công nghiệp công nghệ cao, ứng dụng khoa học công nghệ và thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế số là động lực tăng trưởng chính trong giai đoạn tới", ông Nguyễn Văn Dũng khẳng định.
Các đại biểu thảo luận về sản xuất thông minh.
Theo ông Stephan Mergenthaler - Giám đốc điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), bản chất của sự chuyển đổi hiện nay không nằm ở công nghệ mà ở năng lực tư duy chiến lược.
“Nền kinh tế thông minh không chỉ là động cơ tăng trưởng mà còn là thước đo năng lực lãnh đạo, thể hiện khả năng khai thác trí tuệ nhân tạo một cách có trách nhiệm và bao trùm. Nếu quá trình chuyển đổi được quản trị hiệu quả, đặc biệt trong việc nâng cao năng suất và hiệu quả vận hành, sản xuất thông minh và phân tích dữ liệu có thể giúp công nghiệp nâng năng suất thêm 20-30%. Chuỗi cung ứng vì thế sẽ trở nên nhanh hơn, sạch hơn và minh bạch hơn", ông Stephan Mergenthaler cho biết.
Trí tuệ nhân tạo đã tạo ra những tác động thực tế trong sản xuất. Tại Việt Nam, tự động hóa ngày càng tăng, năng suất lao động theo đầu người đã tăng hơn 50%, lợi nhuận dự kiến năm 2025 có thể tăng hơn 80%, nhưng số lượng nhân sự chỉ tăng hơn 20%. Điều này cho thấy khách hàng ngày càng yêu cầu các giải pháp thông minh, và buộc các doanh nghiệp phải liên tục ứng dụng công nghệ, tìm kiếm các trung tâm mới và xây dựng các nhà máy thế hệ mới.
Sản xuất thông minh không chỉ tác động nội tại nhà máy mà còn lan tỏa ra toàn bộ chuỗi cung ứng. Theo đánh giá từ WEF, việc ứng dụng phân tích dữ liệu và sản xuất thông minh có thể giúp năng suất công nghiệp tăng thêm 20-30%, đồng thời giúp chuỗi cung ứng trở nên nhanh hơn, sạch hơn và minh bạch hơn.
Theo các diễn giả, sản xuất thông minh không chỉ dừng lại ở việc tự động hóa dây chuyền mà phải biết sử dụng dữ liệu. Dữ liệu đã trở thành “nguyên liệu mới” trong công nghiệp hiện đại. Khi dữ liệu vận hành được thu thập theo thời gian thực, doanh nghiệp có thể tối ưu hóa tồn kho, điều phối nguồn lực và tăng cường độ tin cậy của kế hoạch sản xuất. Đặc biệt, tính minh bạch của chuỗi cung ứng ngày càng trở thành lợi thế cạnh tranh quan trọng trong bối cảnh thị trường toàn cầu yêu cầu ngày càng cao về trách nhiệm môi trường và xã hội.
Ông Kyriakos Triantafyllidis - Trưởng bộ phận Tăng trưởng và Chiến lược, Trung tâm Sản xuất Tiên tiến và Chuỗi cung ứng của WEF, chia sẻ về khái niệm Nhà máy Lighthouse (nhà máy thông minh tiên phong) đã và đang phổ biến trên thế giới.
Được biết, Nhà máy Lighthouse được WEF và McKinsey (doanh nghiệp tư vấn quản trị, chiến lược của Mỹ) đề xuất vào năm 2018, nhằm tìm ra những nhà máy tiêu biểu trong Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (4IR), họ đã tận dụng những công nghệ số để cải thiện năng suất sản xuất và vận hành, tăng trưởng doanh thu.
Ông Kyriakos Triantafyllidis nói thêm, WEF cũng đã sáng lập mạng lưới các nhà máy tiên phong (Lighthouse Network), nhằm triển khai các mô hình ứng dụng công nghệ quy mô lớn trong sản xuất.
Sau một thời gian vận hành, mạng lưới này đã mang lại những kết quả thực tế rõ rệt về năng suất và phát triển bền vững. Đây là hai chỉ số quan trọng trong đánh giá hiệu quả sản xuất hiện đại.
Tại Việt Nam, ông cho biết hiện đã có trung tâm đầu tiên tham gia mạng lưới này và kỳ vọng trong tương lai sẽ có thêm nhiều nhà máy Lighthouse được triển khai.
Bà Nguyễn Dạ Quyên - đồng Lãnh đạo Trung tâm Sản xuất thông minh và Chuỗi cung ứng toàn cầu của HCMC C4IR cho biết, 97% doanh nghiệp Việt Nam hiện là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) nên khả năng ứng dụng công nghệ còn hạn chế.
Theo bà Quyên, những doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiệu quả phần lớn là nhóm có vốn FDI, trong khi chỉ khoảng 26% doanh nghiệp trong nước đã sử dụng IoT (Internet vạn vật). “Việt Nam đi sau, nhưng đang từng bước bắt kịp xu hướng thế giới”, bà Quyên nhận định.
Ông Trần Anh Tú - Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin (Bộ Khoa học và Công nghệ) bổ sung, với đặc thù phần lớn doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, Việt Nam không thể “đi thẳng” vào AI một cách toàn diện. Theo ông, các doanh nghiệp cần một lộ trình phù hợp, triển khai tuần tự từ số hóa dữ liệu, sau đó mới tiến tới tự động hóa và các ứng dụng AI phức tạp hơn.
Các chuyên gia đều thống nhất, doanh nghiệp không thể đi một mình trong hành trình này. Trước khi triển khai chuyển đổi số, cần xây dựng đội ngũ nòng cốt để làm việc trực tiếp với chính quyền địa phương. Đồng thời, cần các chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng số như 5G, trung tâm dữ liệu lớn và khu công nghiệp thông minh, những yếu tố nền tảng giúp chuỗi cung ứng thông minh vận hành hiệu quả và bền vững.
Bùi Trung
Nguồn: https://doanhnghiepvn.vn/doanh-nhan/doanh-nghiep-tang-suc-canh-tranh-nho-san-xuat-thong-minh/20251127103937742






Bình luận (0)