Hoàn thiện pháp luật về giáo dục
Theo báo cáo của Chi bộ Vụ Pháp chế, công tác xây dựng và thi hành pháp luật trong lĩnh vực GD-ĐT tại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho sự phát triển của ngành, đặc biệt trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và hội nhập quốc tế. Các tiến bộ trong chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), nâng cao vị thế giáo dục đại học trên trường quốc tế là những điểm sáng, cho thấy khả năng thích ứng và vươn lên của ngành Giáo dục.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về giáo dục còn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt trong giải quyết các bất cập liên quan đến đội ngũ nhà giáo, quản lý giáo dục ngoài công lập và các trường chuyên biệt, cũng như chậm trễ trong cụ thể hóa các quy định pháp luật. Những vấn đề này đòi hỏi sự quan tâm và giải pháp đồng bộ để đảm bảo pháp luật thực sự là đòn bẩy cho sự phát triển đi lên.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, với những biến đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ và hội nhập toàn cầu, Vụ Pháp chế cho rằng, việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục cần tập trung hoàn thiện khung pháp lý về đội ngũ nhà giáo; thúc đẩy chuyển đổi số và ứng dụng AI với khung pháp lý tiên phong; tăng cường hội nhập quốc tế, hài hòa hóa pháp lý và nội hóa chuẩn mực quốc tế; sớm ban hành Luật Học tập suốt đời, đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục và phát triển giáo dục bền vững.
Việc chủ động, linh hoạt, quyết liệt trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật về giáo dục là yếu tố then chốt giúp Việt Nam vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội và đưa giáo dục thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, đáp ứng xứng đáng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Phát triển đội ngũ nhà giáo
Theo báo cáo của Chi bộ Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục, được sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng ủy Bộ GD&ĐT, sự vào cuộc, phối hợp của cấp ủy, chính quyền các địa phương, trong 5 năm qua, đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên trên cả nước không ngừng được kiện toàn cả về số lượng, chất lượng.
Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn tăng dần qua các năm. Bồi dưỡng thường xuyên, tập huấn Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được triển khai nghiêm túc, bài bản. Chính sách hỗ trợ, đãi ngộ được quan tâm, nhất là đối với giáo viên vùng sâu, xa, biên giới. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý được triển khai theo hướng mở, bảo đảm tính kế thừa, phát triển.
Để tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo vững vàng chính trị, giỏi chuyên môn, đủ số lượng, hợp lý cơ cấu, Chi bộ Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục đề xuất các giải pháp trọng tâm.
Trong đó nhấn mạnh việc thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về đội ngũ nhà giáo, nhất là chủ trương “lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp”. Có chính sách ưu đãi đặc biệt cho đội ngũ giáo viên tài năng, vùng đặc biệt khó khăn; có quy định riêng về tinh giản biên chế mang tính chọn lọc, không cắt giảm cơ học.
Giao đủ biên chế giáo viên theo định mức quy định. Có cơ chế cấp kinh phí để hợp đồng giáo viên khi biên chế giáo viên được giao chưa đủ theo định mức. Tăng cường kinh phí đầu tư cho giáo dục bảo đảm nguồn lực phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ. Đồng thời, tăng quyền chủ động cho ngành Giáo dục, trong đó thống nhất đầu mối tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển giáo viên về ngành Giáo dục; thu hút người tài; phát triển đội ngũ chuyên gia đầu ngành tham gia cả trong và ngoài lĩnh vực giáo dục.
Trao quyền cho nhà giáo được nghiên cứu khoa học, chuyển giao sản phẩm nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật về nghiên cứu khoa học và sở hữu trí tuệ; được tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp do cơ sở giáo dục đại học thành lập, hoạt động trong lĩnh vực phát triển khoa học, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; được tạo điều kiện tối đa tham gia học tập, nâng cao năng lực.
Khuyến khích giao lưu học thuật trong nước, quốc tế, đặc biệt ở các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản; đơn giản hóa thủ tục để thu hút chuyên gia trong và ngoài nước vào giảng dạy.
Tăng quyền tự chủ cho cơ sở đào tạo với việc giao quyền tuyển dụng, bồi dưỡng, đánh giá, trả lương theo năng lực và kết quả cho các trường đại học, cao đẳng; tháo gỡ các điểm nghẽn chính sách, đẩy mạnh truyền thông, minh bạch thông tin. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong dạy học, quản lý, bồi dưỡng thường xuyên; sớm xây dựng chiến lược ứng dụng khoa học - công nghệ phục vụ phát triển nghề nghiệp giáo viên.
Các địa phương, cơ sở giáo dục cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm trong việc phát triển đội ngũ nhà giáo; phải đổi mới cách làm, quy định chính sách nội bộ để phát triển, quy hoạch đội ngũ nhà giáo; chuẩn bị sớm, tạo mọi điều kiện cho nhà giáo tham gia các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo.

Đào tạo nhân lực công nghệ kỹ thuật
Trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, công nghệ cao và nền kinh tế số, việc xây dựng và triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của các nhóm ngành công nghệ kỹ thuật (STEM) trở thành nhiệm vụ cấp thiết.
Nhấn mạnh điều này, báo cáo của Chi bộ Vụ Giáo dục Đại học chỉ ra, giáo dục đại học đứng trước hai nhiệm vụ quan trọng. Thứ nhất là đào tạo đủ nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghệ phục vụ phát triển kinh tế, xã hội (bán dẫn, đường sắt tốc độ cao, vật liệu tiên tiến, công nghệ sinh học...).
Thứ hai là sẵn sàng cung cấp nhân lực đón đầu làn sóng các ngành công nghệ mới nổi. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để đất nước ta bước vào kỷ nguyên khoa học công nghệ tiên tiến.
Hiện nay, nhân lực nhóm ngành công nghệ kỹ thuật của nước ta tập trung chủ yếu ở một số lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghiệp sản xuất thiết bị tự động hóa. Quy mô đào tạo nhân lực các ngành khoa học kỹ thuật còn thấp hơn so với một số nước đã thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Theo thống kê của Vụ Giáo dục Đại học, quy mô đào tạo các trình độ của nhóm ngành toán và khoa học kỹ thuật (STEM) hiện nay có 685.794 sinh viên đại học, 21.620 học viên cao học và 3.501 nghiên cứu sinh (năm học 2024 - 2025).
Từ thực tiễn, Chi bộ Vụ Giáo dục Đại học đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ngành công nghệ kỹ thuật. Theo đó, ban hành chính sách, cơ chế thu hút học sinh theo học các ngành khoa học tự nhiên ngay từ THPT.
Kết hợp với giáo dục phổ thông chú trọng các môn khoa học tự nhiên, công nghệ từ tiểu học, trung học, khơi dậy niềm đam mê học thuật cho học sinh. Xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia có chính sách miễn, giảm học phí cho người học khối ngành kỹ thuật cao.
Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm theo từng giai đoạn. Các nhóm ngành khoa học kỹ thuật công nghệ cần ưu tiên đầu tư gồm: Trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, khoa học máy tính, dữ liệu, đường sắt tốc độ cao, kiến trúc đô thị thông minh, an ninh mạng, năng lượng xanh, công nghệ lưu trữ năng lượng, kỹ thuật giám sát thông minh, thiết bị hàng hải thông minh, công nghệ nhân giống, sinh học và nông nghiệp thông minh...
Nâng cao chất lượng tuyển sinh đầu vào. Một trong những giải pháp đề xuất là tuyển sinh phù hợp với yêu cầu chuẩn chương trình đào tạo nhóm ngành khoa học kỹ thuật. Với các ngành kỹ thuật - công nghệ cao, cần thêm công cụ đánh giá chuyên biệt (ví dụ: Toán logic, kỹ năng tư duy lập trình cơ bản...). Đồng thời, quy định ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào riêng cho các ngành kỹ thuật, công nghệ.
Thiết lập quỹ học bổng đặc biệt cho học sinh giỏi quốc gia, học sinh chuyên ngành Toán - Lí - Hóa - Tin chọn học ngành công nghệ kỹ thuật tại các trường đại học công nghệ hàng đầu. Triển khai chính sách cam kết việc làm sau tốt nghiệp cho sinh viên ngành kỹ thuật - công nghệ nếu đạt kết quả học tập tốt.
Cùng với đó, đổi mới chương trình, hoạt động đào tạo và cơ sở vật chất. Các chương trình đào tạo đại học được cập nhật liên tục, chú trọng trải nghiệm thực tế thông qua dự án, thực tập và hợp tác với doanh nghiệp. Thiết kế chương trình đào tạo liên ngành trang bị cho sinh viên kiến thức và kỹ năng đa dạng, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động… Đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, xưởng thực hành thông minh, công cụ mô phỏng kỹ thuật số.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên với chính sách ưu tiên đào tạo phát triển đội ngũ chuyên gia giỏi để tiếp cận công nghệ của thế giới; tuyển dụng các nhà khoa học uy tín trên thế giới làm việc tại Việt Nam; đào tạo lại, cập nhật kiến thức mới, kỹ năng sư phạm hiện đại, định kỳ cập nhật kiến thức mới trong lĩnh vực chuyên môn và kỹ năng sư phạm tiên tiến... Có chính sách tài trợ giảng viên tham gia các khóa tập huấn quốc tế, các kỳ thực tập tại doanh nghiệp công nghệ cao…
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục cũng là giải pháp quan trọng. Theo đó, phát triển mô hình đại học số sử dụng công nghệ số, dữ liệu số, nền tảng trực tuyến để tổ chức, quản lý, giảng dạy, học tập, đánh giá và phát triển nguồn nhân lực. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản lý…
Chú trọng liên kết đại học - viện nghiên cứu - doanh nghiệp. Thiết lập mạng lưới hợp tác 3 bên để đồng thiết kế chương trình, tổ chức học kỳ thực tập và tài trợ nghiên cứu. Xây dựng cơ chế chính sách đầu tư vào nghiên cứu, phát triển, coi đây là yếu tố then chốt để thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Thành lập các trung tâm, viện nghiên cứu chuyên sâu về công nghệ cao để tập trung nguồn lực, tạo môi trường làm việc thuận lợi, thúc đẩy nghiên cứu phát triển “ba nhà”.
Giải pháp liên quan đến giám sát, đánh giá và cải tiến chất lượng, cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá riêng cho ngành kỹ thuật dựa trên tiêu chuẩn quốc tế, hiệp hội khoa học kỹ thuật thế giới. Thành lập hội đồng cố vấn từ doanh nghiệp để cùng tham gia xây dựng nội dung và kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Áp dụng chu trình kiểm định chất lượng thực chất theo chu kỳ để cải tiến định kỳ chương trình đào tạo kỹ thuật theo phản hồi từ sinh viên, doanh nghiệp. Cuối cùng, cần quan tâm giáo dục kỷ luật lao động ngay tại nhà trường.
Đột phá phát triển nhân lực kỹ năng nghề cao
Chia sẻ giải pháp tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao, báo cáo của Đảng bộ Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên nhấn mạnh, cần có chủ trương, chính sách mạnh mẽ, đột phá. Trong đó, ưu tiên nhanh chóng sửa đổi, bổ sung đồng bộ Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Giáo dục đại học để tạo hành lang pháp lý cho đổi mới, phát triển giáo dục nghề nghiệp.
Định vị giáo dục nghề nghiệp là một bộ phận quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân và phát triển nguồn nhân lực. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp đa dạng, mở, linh hoạt, dễ tiếp cận cho người dân để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ và thị trường lao động.
Đồng thời, đổi mới toàn diện chương trình giáo dục nghề nghiệp. Bổ sung quy định về các chuẩn trong giáo dục nghề nghiệp, bao gồm: Chuẩn trình độ được đào tạo của nhà giáo, chuẩn cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chuẩn chương trình đào tạo. Tiếp tục rà soát, sắp xếp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp bảo đảm hợp lý, đồng bộ với sắp xếp và trao quyền cho đơn vị hành chính các cấp, kết nối với quy hoạch sản xuất.
Chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đào tạo; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong đào tạo. Hình thành các trung tâm đào tạo và thực hành nghề công nghệ cao, công nghệ mới, các ngành công nghiệp mũi nhọn, sản xuất thông minh...
Bổ sung quy định doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục nghề nghiệp. Thúc đẩy hợp tác sâu rộng giữa nhà trường và doanh nghiệp trong giáo dục nghề nghiệp, nhất là trong tích hợp chức năng đào tạo, thực hành, sản xuất thực tế và dịch vụ kỹ thuật. Chú trọng phát triển đội ngũ nhà giáo, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý. Có chính sách hấp dẫn để thu hút, đào tạo, bồi dưỡng nhà quản lý, nhà giáo, người dạy nghề, chuyên gia chất lượng cao, tiếp cận chuẩn của các nước tiên tiến.
Cũng cần tăng cường nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, nhất là cho đào tạo nhân lực chất lượng cao, các ngành, nghề trọng điểm, mũi nhọn. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ học tập, phát triển kỹ năng suốt đời cho người dân; tạo cơ hội việc làm, đánh giá và bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp, thăng tiến cho người học. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về giáo dục nghề nghiệp.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về đổi mới, phát triển giáo dục nghề nghiệp; xóa bỏ mặc cảm đây là con đường thấp kém. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; nâng cao tính tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước, xây dựng cơ chế tự kiểm tra, giám sát của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp…
Ứng dụng hiệu quả, bền vững công nghệ trong giáo dục
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, điện toán đám mây và các nền tảng công nghệ số đã và đang định hình lại toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Giáo dục, với vai trò là nền tảng của phát triển bền vững, không thể đứng ngoài tiến trình này. Thực tế cho thấy, các quốc gia đi đầu trong chuyển đổi số giáo dục và ứng dụng AI không chỉ cải thiện đáng kể chất lượng dạy học, mà còn nâng cao hiệu quả quản trị, cá nhân hóa hoạt động học tập và tạo ra hệ sinh thái giáo dục đổi mới, linh hoạt, hội nhập.
Đối với Việt Nam, Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, của Bộ Chính trị đã xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược, trong đó GD-ĐT được xem là lĩnh vực ưu tiên. Triển khai Nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 71/NQ-CP, ngày 1/4/2025 và yêu cầu Bộ GD&ĐT chủ động xây dựng kế hoạch hành động, tích cực thúc đẩy các giải pháp đổi mới quản lý và giảng dạy dựa trên công nghệ, dữ liệu và trí tuệ nhân tạo.
Để đẩy mạnh ứng dụng AI và công nghệ số một cách hiệu quả, bền vững, Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin kiến nghị, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, chính sách cho chuyển đổi số và ứng dụng AI trong giáo dục. Ban hành các văn bản pháp luật quy định rõ về giá trị pháp lý, quy trình sử dụng, bảo mật thông tin liên quan đến dữ liệu giáo dục, học bạ điện tử, văn bằng điện tử; xây dựng bộ quy tắc ứng xử AI trong giáo dục.
Xây dựng chiến lược/kế hoạch quốc gia về AI trong giáo dục đến năm 2030; xác định rõ các mục tiêu theo giai đoạn, nhiệm vụ ưu tiên và lộ trình triển khai cụ thể. Phát triển hạ tầng và cơ sở dữ liệu giáo dục hiện đại, tích hợp toàn ngành; hoàn thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo; xây dựng Trung tâm giám sát, điều hành thông minh để nâng cao hiệu quả giám sát và hỗ trợ điều hành của Bộ GD&ĐT.
Chú trọng bồi dưỡng năng lực số và AI cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý. Xây dựng chương trình quốc gia đào tạo kỹ năng số và năng lực AI trong 5 năm tới; huy động sự tham gia của các trường sư phạm, các doanh nghiệp công nghệ và tổ chức quốc tế. Phát triển nền tảng số, công cụ AI nội địa phục vụ giáo dục Việt Nam.
Bộ GD&ĐT cần báo cáo Chính phủ để triển khai ngay việc đặt hàng các doanh nghiệp trong nước nghiên cứu, phát triển các công cụ như: Kho học liệu số thông minh, trợ lý ảo cho mỗi giáo viên, gia sư ảo cho mỗi học sinh phổ thông.
Việc triển khai này cần có sự đồng hành chặt chẽ của các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt các trường sư phạm và kỹ thuật trong việc nghiên cứu, thử nghiệm, đưa vào thực tiễn. Nâng cao nhận thức, truyền thông về AI, chuyển đổi số trong toàn ngành và xã hội, qua đó, xây dựng văn hóa sử dụng công nghệ số và AI an toàn, hiệu quả, bền vững cũng là vấn đề cần quan tâm triển khai.
Đáp ứng yêu cầu mới, cơ sở giáo dục đại học cần nhanh chóng trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo có tầm vóc trong khu vực, gắn kết với phát triển kinh tế vùng và địa phương. Giáo dục nghề nghiệp cần đáp ứng được nhu cầu đào tạo lại, nâng cao kỹ năng, chuyển đổi nghề nghiệp cho lực lượng lao động quy mô lớn.
Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông tiếp tục có vai trò nền tảng, định hướng phát triển con người toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, văn hóa. Yêu cầu đổi mới thể chế, cải cách hành chính, chuyển đổi số quốc gia và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước tiếp tục đặt ra áp lực đổi mới mạnh mẽ đối với lĩnh vực giáo dục.
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/dong-bo-giai-phap-nang-cao-chat-luong-giao-duc-dao-tao-trong-ky-nguyen-moi-post745004.html
Bình luận (0)