Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa I - Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Ảnh: Tư liệu |
Ngày 9/11/1946, Quốc hội khóa I thông qua bản Hiến pháp đầu tiên, hiến định những tư tưởng cơ bản của Nhà nước mới - Nhà nước độc lập, tự chủ, dân chủ cộng hòa. Bản Hiến pháp năm 1946 bao gồm: Lời nói đầu, 70 điều được viết trong 7 chương. Trong đó, Chương I quy định về Chính thể; Chương II quy định về Nghĩa vụ và Quyền lợi công dân; Chương III quy định về Nghị viện nhân dân; Chương IV quy định về Chính phủ; Chương V quy định về Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính; Chương VI quy định về Cơ quan Tư pháp; Chương VII quy định về việc sửa đổi Hiến pháp.
Ngay từ Lời nói đầu, bản Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định: “Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của Nhân dân”.
Khi nhận xét về Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp. Chính phủ cố gắng làm theo đúng 3 chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc”.
Có thể nói, ngay sau khi Nhà nước được thành lập đã thiết lập đầy đủ hệ thống cơ quan nhà nước và ban hành các quy định pháp lý nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của Nhân dân trên mọi lĩnh vực. Lần đầu tiên trong lịch sử, Nhân dân Việt Nam thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình.
Chính quyền non trẻ khi đó phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: nền hành chính chưa ổn định, lực lượng cán bộ mỏng, kinh nghiệm quản lý đất nước còn hạn chế, trong khi tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh đều gặp thách thức nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, việc ban hành bản Hiến pháp năm 1946 là một thành tựu lớn, thể hiện quyết tâm xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “Quốc hội đã thu được một kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản Hiến pháp. Sau khi nước nhà mới tự do được 14 tháng, đã làm thành được bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản Hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử, Hiến pháp đầu tiên trong cõi Á Đông này nữa. Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế”.
Hiến pháp năm 1946 đã xác lập nền tảng chính trị mới của quốc gia, chế độ dân chủ cộng hòa. Trong thể chế này, quyền lực Nhà nước bắt nguồn từ Nhân dân, thuộc về Nhân dân và phục vụ lợi ích của Nhân dân. Hiến pháp không chỉ khẳng định tính ưu việt của chế độ mới mà còn đề cao các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền hiện đại: bình đẳng, dân chủ và tự do cho mọi công dân, không phân biệt giới tính, thành phần xã hội hay dân tộc.
Cùng với đó là tính chất tiến bộ và nhân văn không chỉ thể hiện qua các điều khoản trên văn bản pháp lý, mà còn được cụ thể hóa sớm trong thực tiễn đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa của đất nước. Ngay từ khi ra đời, trong bối cảnh chính quyền cách mạng còn non trẻ, đất nước vừa giành được độc lập và đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, bản Hiến pháp đã thể hiện rõ tinh thần đoàn kết toàn dân, đề cao quyền con người.
Một điểm đặc biệt cần nhấn mạnh là Hiến pháp năm 1946 đã xác định rõ hình thức hoạt động dân chủ của Nghị viện Nhân dân, khi quy định tại Điều 30: “Nghị viện họp công khai, công chúng được nghe”, quy định này thể hiện rõ bản chất dân chủ của một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được cụ thể hóa thông qua chính phương thức hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Một trong những điểm tiến bộ nổi bật của Hiến pháp năm 1946 là sự quan tâm đặc biệt đến các nhóm yếu thế trong xã hội, tiêu biểu là phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số, những đối tượng lâu nay thường bị thiệt thòi trong các chế độ xã hội trước đó. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, người phụ nữ được khẳng định một cách chính thức và đầy đủ về địa vị xã hội cũng như pháp lý. Hiến pháp không chỉ thừa nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ, mà còn bảo đảm cho phụ nữ được tham gia vào bộ máy chính quyền, có tiếng nói trong công cuộc xây dựng đất nước, và được hưởng đầy đủ các quyền tự do cơ bản như tự do ngôn luận, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú…
Những nội dung tiến bộ của Hiến pháp năm 1946 đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh nội sinh to lớn. Chính yếu tố này đã giúp chính quyền cách mạng non trẻ vượt qua muôn vàn khó khăn, giữ vững thành quả Cách mạng tháng Tám và tiếp tục đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của Nhân dân trong giai đoạn đầu của nền độc lập.
Chính từ nền tảng ấy, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã huy động được sức mạnh toàn dân cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Mục tiêu xây dựng một xã hội “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” không chỉ là lý tưởng cao đẹp, mà còn phản ánh tinh thần nhân đạo, tiến bộ của một nền dân chủ non trẻ nhưng đầy bản lĩnh và khát vọng vươn lên.
Trải qua 80 năm, những thành quả ấy vẫn giữ nguyên giá trị, tiếp tục là nền tảng định hướng cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Nguồn: https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/theo-dong-thoi-su/gia-tri-lich-su-ban-hien-phap-nam-1946-156864.html
Bình luận (0)