Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Giữ sắc màu di sản tranh Đông Hồ lấp lánh cùng thời gian

Trước nguy cơ mai một, những nghệ nhân còn bám nghề đang lặng lẽ giữ gìn hồn cốt tranh Đông Hồ - di sản văn hóa dân gian gần 500 năm tuổi.

Báo Lao ĐộngBáo Lao Động17/12/2025


Báo Lao Động đã có cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Hữu Quả - một trong những nghệ nhân cuối cùng của làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh), Nghề làm tranh 500 tuổi vừa được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.

Dòng tranh Đông Hồ đã tồn tại khoảng 500 năm, gắn bó với người dân làng Đông Hồ qua nhiều thế hệ. Vậy, hình ảnh làng Đông Hồ trong ký ức xưa của nghệ nhân ra sao?

- Tuổi thơ tôi gắn liền với không khí làm tranh rộn ràng mỗi dịp Tết. Khi đó, cả làng gần như nhà nào cũng tất bật: phên giấy điệp dựng kín sân, ván khắc gỗ bày khắp nơi, người lớn thay nhau pha màu, in tranh, còn trẻ con thì chạy quanh, nhìn rồi làm theo.

Thời kỳ tranh Đông Hồ hưng thịnh, cả làng có 30-40 hộ làm tranh Đông Hồ, khi đỉnh điểm lên đến 200 nhân công. Dịp Tết, các hộ làm cả ngày lẫn đêm. Người lớn trong nhà cho phép lớp trẻ chúng tôi tham gia làm tranh theo khả năng, kiếm thêm tiền tiêu Tết.

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả - một trong những nghệ nhân ưu tú hiếm hoi của nghề làm tranh Đông Hồ truyền thống. Ảnh: Hải Nguyễn

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả - một trong những nghệ nhân ưu tú hiếm hoi của nghề làm tranh Đông Hồ truyền thống. Ảnh: Hải Nguyễn

Là một nghệ nhân đã gắn bó, nghiên cứu tranh dân gian lâu năm, ông đánh giá tranh Đông Hồ có điểm gì đặc biệt so với các dòng tranh dân gian khác của Việt Nam?

- Tranh Đông Hồ có những đặc trưng rất riêng, thể hiện trên nhiều phương diện, tạo nên sự khác biệt so với các dòng tranh in mộc bản khác của Việt Nam như Hàng Trống, Kim Hoàn, tranh Huế hay tranh của một số dân tộc thiểu số.

Trước hết là chất liệu giấy. Tranh Đông Hồ sử dụng giấy điệp, được quét từ bột vỏ sò điệp, tạo nên bề mặt óng ánh, vừa bền vừa có hiệu ứng thị giác đặc trưng mà không dòng tranh nào khác có được.

Thứ hai là chất liệu màu sắc. Màu trong tranh Đông Hồ hoàn toàn là màu tự nhiên: màu đỏ lấy từ sỏi son nghiền nhỏ, màu vàng từ hoa hòe, màu xanh từ lá chàm, màu trắng từ vỏ điệp, còn màu đen được tạo từ tro đốt rơm, lá tre. Chính bảng màu thiên nhiên này tạo nên vẻ mộc mạc, gần gũi nhưng rất bền màu theo thời gian.

Một điểm đặc biệt nữa là kỹ thuật in mộc bản. Tranh Đông Hồ in màu trước, nét đen in sau để định hình, đây là kỹ thuật khác biệt không chỉ so với các dòng tranh dân gian Việt Nam khác mà còn so với nhiều dòng tranh mộc bản trên thế giới.

Việc các lớp màu được in chồng lên nhau - có thể hai hoặc ba lớp - tạo ra những gam màu trung gian rất đẹp, như trắng chồng lên đỏ, vàng chồng lên xanh… Hiệu ứng màu sắc này chỉ có thể đạt được bằng in mộc bản thủ công.

Tuy nhiên, để tạo nên sự hài hòa đó, đòi hỏi con mắt thẩm mỹ, kinh nghiệm và tay nghề của từng nghệ nhân trong việc phân bố màu. Đây là yếu tố quyết định giá trị nghệ thuật của mỗi bức tranh Đông Hồ.

Bức tranh “Đánh ghen“. Ảnh: Hải Nguyễn

Bức tranh “Đánh ghen“. Ảnh: Hải Nguyễn

Là người gắn bó nhiều năm với tranh Đông Hồ, lại chứng kiến giai đoạn hưng thịnh rồi suy giảm, đến nay chỉ còn khoảng 3 hộ gia đình còn theo nghề, theo nghệ nhân, đâu là nguyên nhân khiến tranh Đông Hồ ngày càng mai một và khó gìn giữ, truyền lại cho các thế hệ sau?

- Sự mai một của tranh Đông Hồ không diễn ra trong ngày một ngày hai, mà là quá trình kéo dài hàng chục năm. Nguyên nhân sâu xa bắt đầu từ giai đoạn khó khăn kinh tế, khoảng những năm 1970-1980. Khi đời sống còn nhiều thiếu thốn, nhu cầu chơi tranh, treo tranh giảm mạnh, kéo theo đầu ra của sản phẩm bị thu hẹp.

Ngày xưa, người dân thường mua tranh Đông Hồ treo dịp Tết. Hết năm, tranh cũ hỏng thì lại mua tranh mới. Vòng tuần hoàn tiêu dùng diễn ra đều đặn, người mua nhiều thì người làm tranh cũng sống được bằng nghề. Nhưng từ khi tranh được lồng khung, treo bền hàng chục năm, nhu cầu mua mới giảm hẳn. Tranh không còn tiêu thụ đều như trước, chu chuyển chậm, đầu ra giảm, người làm nghề không thể sống được thì buộc phải bỏ nghề.

Việc đến nay còn duy trì được vài hộ gia đình thực ra đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Những hộ này có nền tảng gia đình, có dụng cụ, có vốn liếng, có nguồn nguyên liệu và cả tri thức nghề tích lũy từ trước. Nhưng dù vậy, họ cũng chỉ duy trì ở mức cầm chừng suốt nhiều chục năm. Nếu không có sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời, thì rất có thể giai đoạn “cầm chừng” ấy sẽ tiếp tục thu hẹp, thậm chí dẫn đến nguy cơ mai một hoàn toàn, giống như nhiều làng nghề khác đã mất.

Tranh Đông Hồ đứng trước nguy cơ mai một. Ảnh: Hải Nguyễn

Tranh Đông Hồ đứng trước nguy cơ mai một. Ảnh: Hải Nguyễn

Là một trong những nghệ nhân hiếm hoi còn theo đuổi tranh Đông Hồ, trong thời gian qua, ông đã làm gì để giữ gìn và phát huy dòng tranh này cho thế hệ sau, thưa nghệ nhân?

- Để giữ nghề tranh Đông Hồ, tôi đã nỗ lực, góp sức trong thời gian dài. Trước hết là công tác tuyên truyền, giới thiệu. Tôi cố gắng truyền tải những giá trị hay, cái đẹp, cái sâu sắc của tranh Đông Hồ để mọi người hiểu và yêu, từ đó mới có nhu cầu chơi tranh, giữ tranh.

Việc tuyên truyền này không chỉ trong nước mà cả với bạn bè quốc tế. Nhiều người nước ngoài, như ở Ý, Tây Ban Nha, Trung Quốc… rất quan tâm và trân trọng tranh Đông Hồ. Có người tôi sang giao lưu, có người họ về tận đây tìm hiểu, nghiên cứu. Từ khi mạng xã hội phát triển, việc kết nối thuận lợi hơn rất nhiều. Khoảng 5 năm trở lại đây, nhiều bạn bè quốc tế kết nối với tôi qua mạng, rồi có người trực tiếp về làng ở lại nghiên cứu.

Bên cạnh quảng bá, tôi cũng tập trung vào bảo tồn nghề. Những giá trị văn hóa truyền thống cũ vẫn được giữ nguyên, hoạt động làm tranh trong gia đình được duy trì đều đặn. Tôi cũng cố gắng đào tạo lớp trẻ trong họ.

Tuy nhiên, thực tế là rất khó. Nhiều cháu gái học nghề, nhưng khi lập gia đình lại theo chồng, bỏ nghề. Đây là tình trạng chung của nhiều làng nghề hiện nay.

Suốt mấy chục năm nay, tôi vẫn trực tiếp hỗ trợ rất nhiều sinh viên của các trường: Ngoại thương, Báo chí, Đại học Quốc gia, Đại học Văn hóa, Mỹ thuật, Kiến trúc…

Mỗi ngành, mỗi nhóm sinh viên tiếp cận tranh Đông Hồ ở một góc độ khác nhau, từ văn hóa, kinh tế đến mỹ thuật, kiến trúc. Tôi hỗ trợ các em từ tư liệu, thuyết minh, cho đến hướng dẫn thực hành, làm tiểu luận, bài nghiên cứu.

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả cùng con trai là nghệ nhân trẻ Nguyễn Hữu Đạo. Ảnh: Hải Nguyễn

Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả cùng con trai là nghệ nhân trẻ Nguyễn Hữu Đạo. Ảnh: Hải Nguyễn

Ngoài truyền nghề trực tiếp, ông còn tập trung vào những công việc nào để bảo tồn giá trị cốt lõi của tranh Đông Hồ?

- Một việc tôi đặc biệt chú trọng, thậm chí coi là vất vả và lặng lẽ nhất, đó là nghiên cứu và chỉnh lý chữ Hán - Nôm trong tranh Đông Hồ. In tranh thì nhiều người làm được, nhưng chữ đúng hay sai, hiểu đúng hay lệch thì không phải ai cũng làm được. Có những giai đoạn, gần như chỉ một mình tôi theo đuổi công việc này.

Tôi dành hàng chục năm học và nghiên cứu Hán - Nôm để xác định đúng nguồn gốc, tích truyện, ý nghĩa sâu xa của từng dòng chữ trên tranh. Khi đi sâu vào đó, tôi mới hiểu được hết giá trị tư tưởng, văn hóa mà tranh Đông Hồ chứa đựng, rồi từ đó mới có thể truyền tải lại cho thế hệ sau.

Con đường Hán - Nôm thực sự rất gian nan. Nó giống như bơi ra biển lớn, bơi đến khi nào không còn sức nữa thì thôi. Có những chữ học rất lâu, nhưng nếu vài năm không đọc lại là quên ngay. Vì thế phải học đi học lại liên tục. Nhưng chính nhờ vậy, mình mới hiểu được gốc rễ của tranh, hiểu vì sao tranh Đông Hồ lại đặc biệt đến thế.

Cần có chiến lược lâu dài để lưu giữ dòng tranh Đông Hồ. Ảnh: Hải Nguyễn

Cần có chiến lược lâu dài để lưu giữ dòng tranh Đông Hồ. Ảnh: Hải Nguyễn

Theo nghệ nhân, đâu là những giải pháp cốt lõi để nghề tranh Đông Hồ có thể phát triển bền vững?

- Theo tôi, chỉ cần làm tốt 4 nhóm giải pháp: Một là bảo đảm nguồn nguyên liệu truyền thống. Hai là bảo tồn và đào tạo nghệ nhân, trong đó có cả việc hiểu chữ Hán - Nôm, hiểu đúng giá trị văn hóa. Ba là tạo đầu ra cho sản phẩm.

Cuối cùng là định hướng quản lý thống nhất để tránh làm sai lệch bản chất tranh. Nếu không hiểu gốc văn hóa, rất dễ giới thiệu sai, làm lệch giá trị tranh Đông Hồ.

Giữ nghề không chỉ là in tranh, mà là giữ được cái hồn, cái cốt văn hóa. Nếu bơi ra biển lớn mà không biết gốc rễ, không biết quay về đâu, đó mới là thất bại thực sự.

Ngọc Trang


Nguồn:https://laodong.vn/du-lich/kham-pha/giu-sac-mau-di-san-tranh-dong-ho-lap-lanh-cung-thoi-gian-1626284.html


Bình luận (0)

Hãy bình luận để chia sẻ cảm nhận của bạn nhé!

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Cận cảnh xưởng làm ngôi sao đèn LED cho Nhà thờ Đức Bà
Điểm đặc biệt ở ngôi sao Giáng sinh cao 8 m thắp sáng Nhà thờ Đức Bà TPHCM
Huỳnh Như ghi dấu ấn lịch sử ở đấu trường SEA Games: Kỷ lục rất khó phá
Nhà thờ tuyệt đẹp trên quốc lộ 51 lên đèn dịp Giáng sinh, ai đi ngang cũng ngoái nhìn

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Nông dân làng hoa Sa Đéc tất bật chăm sóc hoa phục vụ Festival và Tết 2026

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm