Công tác hiện đại hóa trường lớp phải được chú trọng song hành với nhiều giải pháp then chốt và trụ cột khác để tạo chuyển biến thực chất.
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan: Điều kiện cần nhưng chưa đủ
Là người theo dõi sát quá trình xây dựng chính sách, tôi hoàn toàn đồng tình với sự cần thiết phải ban hành Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035.
Đây không chỉ là bước đi mang tính kỹ thuật lập pháp, mà quan trọng hơn là thể chế hóa kịp thời các Nghị quyết của Bộ Chính trị đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển. Một chủ trương lớn muốn đi vào cuộc sống phải bắt đầu từ những định hướng đồng bộ, có tầm nhìn như vậy.
Khi tiếp cận nội dung chương trình, tôi cho rằng, cơ sở vật chất tốt là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Đôi khi, việc hiện đại hóa trường lớp lại được đặt lên hàng đầu, thành ưu tiên vượt trước những yếu tố cốt lõi khác.
Tôi hình dung điều này giống như câu hỏi quen thuộc: Cốc nước nửa đầy hay nửa vơi? Câu trả lời phụ thuộc vào cách nhìn, cách tiếp cận. Với giáo dục cũng vậy, nâng cao chất lượng không chỉ nằm ở những khối bê tông, phòng học thông minh hay thiết bị mới, mà phải bắt đầu từ chất lượng bên trong mỗi nhà trường, trong từng hoạt động dạy - học hàng ngày.
Tôi đồng thuận với định hướng tăng cường giảng dạy tiếng Anh trong trường học, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhưng điều tôi đặc biệt nhấn mạnh là cách dạy và kết quả cuối cùng. Học sinh phải nói tiếng Anh để người nước ngoài có thể hiểu được. Với giáo dục đại học, yêu cầu ấy càng rõ hơn: Sinh viên ra trường phải giao tiếp được tiếng Anh, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Theo tôi, có những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giáo dục rất thiết thực nhưng lại thường bị coi là “công trình phụ” trong thiết kế trường học như: Thư viện, dinh dưỡng học đường, không gian sinh hoạt sáng tạo. Không phải lúc nào cũng cần tới những khoản đầu tư thật lớn hay hạ tầng thật hiện đại.
Điều quan trọng hơn là tạo môi trường để học sinh và giáo viên được truyền cảm hứng sáng tạo. Mục tiêu cuối cùng của giáo dục là đào tạo nên những con người sáng tạo - thế hệ có khả năng thích ứng và đổi mới trong thời kỳ hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
Cách tiếp cận đối với một Chương trình mục tiêu quốc gia quy mô lớn, tôi cho rằng, đôi khi nên bắt đầu từ những việc nhỏ, cụ thể để làm cho từng trường học tốt lên. Giáo dục trước hết vẫn được vận hành trong “tam giác giáo dục”: Nhà trường - gia đình - xã hội. Chúng ta không thể trông chờ mọi đổi mới chỉ diễn ra trong bốn bức tường lớp học, mà cần giải phóng sự sáng tạo từ chính thầy và trò, từ cộng đồng, từ phương pháp giảng dạy.
Tôi muốn nêu một ví dụ trong lĩnh vực giáo dục nghệ thuật. Nhiều địa phương hoàn toàn có thể đưa các đoàn nghệ thuật của tỉnh đến trường để trực tiếp truyền dạy, thay vì buộc trường học phải có đủ giáo viên nghệ thuật được đào tạo bài bản. Từ thực tiễn cải cách giáo dục vừa qua, tôi nhận thấy vấn đề không nằm ở chỗ chương trình không tốt, mà là môi trường giáo dục chưa tạo đủ động lực để giáo viên sáng tạo. Giáo viên còn áp lực thì khó có thể đổi mới, khó có thể truyền được nhiệt huyết vào từng bài giảng.
Giáo dục không phải là khuôn đúc tạo ra những bản sao giống nhau. Giáo dục cần sự đa dạng, cần cơ chế để mỗi nhà trường, mỗi cơ sở đào tạo - kể cả từ mầm non hay tiểu học - có không gian sáng tạo. Đó cũng là mong muốn lớn nhất của tôi khi góp ý cho Chương trình mục tiêu quốc gia: Một chương trình không chỉ hiện đại về cơ sở vật chất mà còn khơi mở được tinh thần đổi mới trong toàn ngành.
Bà Nguyễn Thị Tuyết Nga - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị: Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi kèm với cơ chế kiểm soát phù hợp
Quan tâm đến Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, tôi cho rằng, cần có sự rà soát kỹ lưỡng để bảo đảm chương trình phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và những quy hoạch liên quan, theo đúng quy định của pháp luật về quy hoạch.
Một chương trình đầu tư quy mô lớn, phạm vi rộng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, càng cần được đối chiếu chặt chẽ với định hướng quy hoạch quốc gia để tránh chồng chéo hoặc đặt ra mục tiêu không thống nhất.
Một nội dung khác tôi quan tâm là việc tránh trùng lặp đối tượng đầu tư giữa Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2026 - 2035 này với ba Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025: Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Đây đều là các chương trình có cấu phần đầu tư cho giáo dục. Do đó, Chính phủ cần rà soát để bảo đảm tính kế thừa, đồng bộ, tránh dàn trải nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước.
Về cơ chế quản lý và tổ chức thực hiện, từ kinh nghiệm triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia thời gian qua, bất cập lớn là sự phân tán trong đầu mối quản lý. Quá nhiều cơ quan cùng hướng dẫn, cùng chỉ đạo khiến địa phương, nhất là cấp xã, gặp khó khăn trong thực thi. Vì vậy, tôi đề nghị cần nghiên cứu kỹ hơn việc phân công đầu mối chủ trì, bảo đảm rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, không để xảy ra trùng lặp hoặc chồng chéo. Việc thu hẹp đầu mối quản lý và giảm số lượng văn bản hướng dẫn cũng sẽ giúp quá trình triển khai thuận lợi hơn.
Song song với đó, cần tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi kèm với cơ chế kiểm soát phù hợp; xây dựng hệ thống quản lý thống nhất với cơ chế đang áp dụng trong các Chương trình mục tiêu quốc gia hiện hành.
Một yêu cầu không thể thiếu là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước chuyển sang quản lý và điều hành điện tử để bảo đảm công khai, minh bạch, tiết kiệm và giảm áp lực báo cáo định kỳ cho cán bộ cơ sở. Khi thủ tục nhẹ nhàng, thông tin thông suốt, địa phương sẽ có thêm thời gian và điều kiện tập trung vào việc tổ chức thực hiện hiệu quả các mục tiêu của chương trình.
Ông Bùi Hoài Sơn - Đoàn ĐBQH TP Hà Nội: Tập trung vào ba trục đột phá
Những năm gần đây, Việt Nam đang hình thành một kiến trúc phát triển mới - nơi giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, thể chế, hội nhập và kinh tế tư nhân không còn vận hành như những trụ cột riêng rẽ, mà kết nối với nhau thành một hệ sinh thái thống nhất.
Chính hệ sinh thái này sẽ quyết định khả năng hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh, bền vững và vẫn giữ được bản sắc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Trong hệ sinh thái đó, giáo dục chính là “trung tâm của trung tâm”. Đây là lĩnh vực quyết định chất lượng giống nòi, nguồn nhân lực, năng lực cạnh tranh và cả sức mạnh văn hóa - tinh thần của dân tộc trong nhiều thập kỷ tới.
Vì thế, tôi hoàn toàn nhất trí với Tờ trình 1061/TTr-CP của Chính phủ và dự thảo Nghị quyết về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035. Các mục tiêu, chỉ tiêu và phạm vi của Chương trình không chỉ nhằm giải quyết những tồn đọng kéo dài của ngành, mà còn mở ra một giai đoạn phát triển mới: hiện đại, mở, liên thông, số hóa và hội nhập sâu hơn.
Tôi đánh giá cao việc Chương trình được thiết kế trong tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời tương thích, bổ trợ và gắn kết với sáu nghị quyết chiến lược khác. Với cách tiếp cận này, Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục không phải là một chương trình đơn ngành, mà là chiếc trục kết nối toàn bộ chiến lược phát triển đất nước.
Tôi đánh giá cao cấu trúc 5 dự án thành phần của Chương trình, bởi chúng đi thẳng vào những “điểm nghẽn” lớn nhất hiện nay như: cơ sở vật chất; giáo dục nghề nghiệp; giáo dục đại học; đội ngũ nhà giáo; giám sát và đánh giá. Thiếu bất cứ mắt xích nào trong 5 dự án này, quá trình hiện đại hóa giáo dục đều khó hoàn chỉnh.
Tôi cũng ủng hộ các mục tiêu cụ thể của Chương trình như: từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai; đầu tư cho 10 đại học trọng điểm để tiếp cận nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á; hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo trong đại học; hiện đại hóa hệ thống trường nghề.
Đây là những bước đi phù hợp với xu thế toàn cầu, nhất là trong bối cảnh Việt Nam cần nguồn nhân lực chất lượng cao để hội nhập sâu và cạnh tranh quốc tế. Việc xây dựng kế hoạch theo chu kỳ 10 năm cũng tạo điều kiện để các địa phương chủ động, thay vì bị động với kế hoạch năm như trước.
Theo tôi, để Chương trình thực sự tạo chuyển biến, cần tập trung vào ba trục đột phá: Thứ nhất, trục thể chế, đúng tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Chúng ta cần cơ chế đặc thù cho các đại học trọng điểm: tự chủ mạnh, quản trị theo chuẩn quốc tế, giảm tối đa thủ tục cản trở đầu tư về cơ sở vật chất và thiết bị. Đi đôi với đó là cơ chế giải trình nghiêm minh, thanh tra chuyển đổi số xuyên suốt.
Thứ hai, trục khoa học - công nghệ và chuyển đổi số, phù hợp Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Tôi cho rằng, cần xây dựng nền tảng dữ liệu thống nhất toàn ngành, tiến tới quản lý học tập suốt đời đối với từng công dân.
Bộ học liệu số mở quốc gia cần sớm được hình thành để bảo đảm cơ hội tiếp cận tri thức bình đẳng. Hệ thống phần mềm xử lý đạo văn chung là một yêu cầu thiết yếu, góp phần bảo đảm liêm chính học thuật. Bên cạnh đó, việc phát triển chuẩn giáo viên số, trường học số, hệ thống đánh giá bằng trí tuệ nhân tạo sẽ tạo ra một môi trường giáo dục hiện đại, minh bạch và hiệu quả.
Thứ ba, trục văn hóa - con người, đồng điệu với Nghị quyết chấn hưng văn hóa và Nghị quyết số 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Tôi muốn nhấn mạnh rằng giáo dục không chỉ đào tạo tri thức mà còn nuôi dưỡng nhân cách, năng lực thẩm mỹ, sức khỏe thể chất, sự tử tế và bản sắc văn hóa Việt Nam.
Vì vậy, tôi đề nghị đưa giáo dục văn hóa, nghệ thuật, di sản vào trường học một cách bài bản; xây dựng môi trường học đường lành mạnh, an toàn, hạnh phúc; và bảo đảm dinh dưỡng, sức khỏe tinh thần cho học sinh. Giáo dục và văn hóa phải song hành, vì văn hóa là không gian để giáo dục thấm sâu vào đời sống.
Cuối cùng, tôi đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện hồ sơ Chương trình theo các kiến nghị thẩm tra, bảo đảm tính đồng bộ với các nghị quyết chiến lược của Đảng và Nhà nước về phát triển con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
“Trong bối cảnh đất nước đứng trước cả cơ hội lớn và thách thức chưa từng có, nếu Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035 được triển khai quyết liệt, đồng bộ, nhất quán thì chúng ta sẽ xây dựng được một nền giáo dục hiện đại, nhân văn, mở, liên thông và hội nhập; một nguồn nhân lực đủ sức cạnh tranh toàn cầu và một thế hệ công dân Việt Nam tự tin, sáng tạo, bản lĩnh, giàu giá trị văn hóa dân tộc”. - Ông Bùi Hoài Sơn - Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hà Nội
Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/hien-dai-hoa-giao-duc-tao-chuyen-bien-that-tu-khoi-day-sang-tao-post760487.html






Bình luận (0)