Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Khó hút đầu tư điện khí vì cơ chế

Quy mô công suất nguồn điện khí tăng mạnh trong Quy hoạch điện 8 điều chỉnh đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư, song cơ chế ưu đãi khiến cho không ít doanh nghiệp lo ngại sẽ có rủi ro khi rót hàng tỉ USD vào các dự án.

Báo Tuổi TrẻBáo Tuổi Trẻ31/10/2025

Khó hút đầu tư điện khí vì cơ chế - Ảnh 1.

Theo đánh giá của các nhà đầu tư, hiện chỉ có hai dự án là Nhiệt điện LNG Nhơn Trạch 3 - 4 là có khả năng hoàn thành đúng thời hạn. Trong ảnh: dự án LNG Nhơn Trạch 3 - 4 đã đi vào vận hành thương mại - Ảnh: T.NGỌC

Một loạt nhà đầu tư mới đây đã có đơn kiến nghị gửi tới Thủ tướng Chính phủ đề xuất các cơ chế, chính sách cho các dự án điện khí, khi Chính phủ đang xây dựng dự thảo nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 do lo ngại những rủi ro trong triển khai dự án.

Lo ngại rủi ro vì bao tiêu thấp

Trong kiến nghị gửi Thủ tướng, các doanh nghiệp kiến nghị nâng mức cam kết bao tiêu sản lượng từ 75% trong dự thảo nghị quyết vừa được Bộ Công Thương trình Chính phủ lên mức 90%, áp dụng cho toàn bộ thời gian hợp đồng mua bán điện.

Cùng với đó dự án được hỗ trợ các cơ chế thanh toán những chi phí cố định, vận hành, bảo dưỡng trong giá điện, bao tiêu nhiên liệu gắn với cơ chế chuyển ngang hợp đồng giá khí sang giá điện, huy động đủ nguồn điện để hoàn thành nghĩa vụ bao tiêu khí.

Các nhà đầu tư cũng mong muốn trong trường hợp Công ty Vận hành hệ thống điện và thị trường điện quốc gia (NSMO) huy động thiếu làm phát sinh các nghĩa vụ bao tiêu nhiên liệu, thì sẽ được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thanh toán phần huy động thiếu và hỗ trợ cơ chế thanh toán bằng ngoại tệ theo tỉ giá thực tế.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Lê Minh - chuyên gia lĩnh vực dầu khí - cho rằng dự án điện khí/LNG có quy mô và suất đầu tư lớn lên tới hàng tỉ USD, nên mức cam kết bao tiêu đang được đề xuất là 75%, thực hiện trong 10 năm được xem là mức cam kết thấp, gây nhiều rủi ro cho nhà đầu tư khi vòng đời dự án điện khí lên tới 22 - 25 năm.

Do quy mô dự án lớn, nhà đầu tư nếu không chứng minh được tính hiệu quả kinh tế, khó có thể thu xếp và huy động vốn từ các ngân hàng, nhà tài trợ. Chưa kể mức bao tiêu chỉ thực hiện trong 10 năm, khiến nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài e ngại rủi ro nếu như sau thời điểm đó không huy động theo cam kết bao tiêu sản lượng, dự án có thể bị đổ vỡ, trong khi nguồn nhiên liệu khí/LNG hầu hết sẽ phải nhập khẩu theo giá thị trường.

Trong khi đó, ông Nguyễn Quốc Thập - Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam - cũng cho rằng nếu mức cam kết bao tiêu sản lượng là 75%, sẽ không đủ thu hút và nhà đầu tư khó có thể ra quyết định cuối cùng, khiến các ngân hàng không thể thu xếp vốn.

"Tuy nhiên mức cam kết bao tiêu sản lượng dù là 75% hay tăng lên tới 85%, 90% nếu tạo thuận lợi và thu hút các nhà đầu tư, lại sẽ gây rủi ro cho EVN khi tập đoàn này phải cam kết và mua điện từ các dự án điện khí", ông Thập nói.

Tính đến cơ chế thí điểm mua bán điện

Do vậy theo ông Thập, thay vì cơ chế bao tiêu sản lượng, có thể tính đến việc nghiên cứu phương án áp dụng cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) áp dụng cho các dự án điện khí với các hộ tiêu thụ lớn có nhu cầu sử dụng điện khí, tức là để cho thị trường quyết định thay vì hiện nay Chính phủ/EVN phải cam kết bao tiêu.

Việc áp dụng chính sách này cũng phù hợp với nghị quyết 70 của Bộ Chính trị, định hướng thúc đẩy cơ chế mua bán điện trực tiếp, cũng như giúp giải phóng được đầu tư hạ tầng lưới truyền tải điện, giúp cho người mua, người bán điện trực tiếp đầu tư hạ tầng lưới truyền tải. Theo ông Thập, cần thiết lập cơ chế DPPA cho chủ đầu tư các dự án điện khí với các hộ công nghiệp lớn, các khu công nghiệp.

Việc triển khai cơ chế này sẽ là cơ sở để thực hiện quy hoạch đồng bộ gắn các khu công nghiệp là những hộ tiêu thụ điện khí, tiêu thụ điện đồng bộ với các nhà máy điện khí/LNG và khu nhập khẩu khí, tạo sự đồng bộ trong chuỗi sản xuất, tiêu thụ điện khí/LNG. Điều này cũng giúp cho truyền tải điện khí được thuận tiện hơn, doanh nghiệp là các hộ tiêu thụ có cơ hội cáo bạch sử dụng nguồn năng lượng trong sản xuất.

Tuy nhiên ông Lê Minh cho rằng việc áp dụng cơ chế DPPA cần thận trọng và từng bước thí điểm. Bởi theo Quy hoạch điện 8 điều chỉnh, công suất đặt điện khí dùng nguồn khí trong nước sẽ tăng từ 7GW lên 16GW, nguồn điện sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng nhập khẩu tăng từ 0,8GW lên 22,5GW. Nếu triển khai các dự án, điện khí sẽ chiếm tỉ trọng lớn trong hệ thống, tương đương 30% công suất của hệ thống điện.

Vì vậy nếu áp dụng ngay toàn bộ cơ chế DPPA có thể dẫn tới nguy cơ phá vỡ cấu trúc hệ thống điện, cân đối nguồn điện cho các vùng miền. Chưa kể, việc này sẽ khó triển khai đối với các dự án điện khí của nhà đầu tư nước ngoài, thông thường sẽ yêu cầu cam kết bao tiêu, bảo lãnh của Chính phủ cùng những yếu tố liên quan tới chênh lệch giữa VND/USD, nhập khẩu nhiên liệu...

Do đó ông Lê Minh cho rằng có thể triển khai thí điểm từng bước với nhà đầu tư trong nước liên quan tới cơ chế DPPA trên cơ sở chuẩn hóa hợp đồng mua bán điện, cân bằng lợi ích các bên và linh hoạt trong cơ chế cam kết giá điện, phù hợp với thực tiễn triển khai dự án của nhà đầu tư.

Nhật Bản muốn hỗ trợ gỡ vướng trong huy động vốn

Đại sứ quán Nhật Bản cũng vừa gửi kiến nghị tới Thủ tướng đề xuất hỗ trợ, gỡ vướng cho các kiến nghị của doanh nghiệp trong quá trình phát triển và huy động vốn, đặc biệt khi triển khai các dự án điện độc lập (IPP) quy mô lớn, giúp thiết lập cơ chế phân bổ rủi ro và đảm bảo tính khả thi về tài chính của dự án.

Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế hợp đồng mua bán điện dài hạn, ổn định và loại bỏ các nút thắt trong cấp phép, huy động vốn... để tạo điều kiện để các doanh nghiệp Nhật Bản và Hàn Quốc là những đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam có thể đóng góp vào an ninh năng lượng và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.

Theo cơ quan Đại sứ quán Nhật Bản, đây là những đơn vị tiên phong trong triển khai thực hiện dự án điện khí/LNG quy mô lớn, đã nằm trong quy hoạch điện. Vì vậy, sự hỗ trợ của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, góp phần thực hiện các chính sách về phát triển năng lượng.

Chưa biết khi nào mới khởi công được dự án

Theo tờ trình dự thảo nghị quyết vừa được Bộ Công Thương trình Chính phủ, dự án điện khí/LNG được triển khai và bắt đầu vận hành đến trước ngày 1-1-2031 sẽ được áp dụng cơ chế về sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn không thấp hơn 75% mức sản lượng điện phát sinh bình quân nhiều năm và thời gian áp dụng trong thời hạn trả nợ gốc và lãi vay, nhưng không quá 10 năm kể từ ngày đưa dự án vào vận hành phát điện.

Trong kiến nghị gửi Thủ tướng, gần chục chủ đầu tư các dự án điện khí như LNG Quảng Ninh, LNG Thái Bình, LNG Hải Lăng, LNG Long An, dự án điện Ô Môn 2... bày tỏ lo ngại rằng chính sách trên, có thể ảnh hưởng đến việc triển khai dự án. Trên thực tế, các dự án này cũng đang gặp vướng mắc trong đàm phán hợp đồng mua bán điện (PPA), hợp đồng bán khí (GSA), thu xếp vốn và thủ tục đầu tư mà "chưa biết bao giờ mới khởi công được dự án".

Theo các doanh nghiệp, nếu các nhà máy điện khí không được đưa vào hoạt động đúng hạn, sẽ khó có nguồn điện nền và giữ ổn định cung cấp điện. Điều này dẫn tới Quy hoạch điện 8 điều chỉnh có thể không được thực hiện, không đảm bảo nguồn điện cho phát triển kinh tế.

NGỌC AN

Nguồn: https://tuoitre.vn/kho-hut-dau-tu-dien-khi-vi-co-che-20251031081647136.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

TPHCM thu hút đầu tư từ doanh nghiệp FDI trong vận hội mới
Lũ lụt lịch sử ở Hội An, nhìn từ máy bay quân sự Bộ Quốc phòng
'Đại hồng thủy' trên sông Thu Bồn vượt lũ lịch sử năm thìn 1964 là 0,14 m
Cao nguyên đá Đồng Văn - 'bảo tàng địa chất sống' hiếm có trên thế giới

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Ngắm nhìn 'Vịnh Hạ Long trên cạn' vừa lọt top điểm đến yêu thích nhất thế giới

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm