Xây dựng công nghiệp hỗ trợ "xanh" đến năm 2030
Mười năm phát triển đã đưa công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam đi từ khái niệm chính sách đến thực tế sản xuất. Nhưng khi thế giới chuyển nhanh sang mô hình kinh tế xanh và tuần hoàn, ngành đang đứng trước một giai đoạn bản lề, hoặc chuyển mình để hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hoặc tiếp tục ở vị thế “vệ tinh” công nghệ thấp.
Những thống kê chỉ rõ thực tại này. Ông Phạm Văn Quân, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, có tới 94% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là dành cho nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện - những thứ mà hoàn toàn có thể chủ động sản xuất được nhờ phát triển công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ.
Khó khăn chính đặt ra cho nội tại ngành, là công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đòi hỏi nguồn vốn lớn và công nghệ cao - những điểm yếu của nhiều doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, việc tiếp cận khoa học công nghệ, chuẩn tác phong công nghiệp của doanh nghiệp Việt còn chậm, quy mô quá nhỏ, hoặc thiếu vốn để đầu tư vào nghiên cứu, dây chuyền công nghệ tốn kém.
Khối tư nhân, nơi đặt kỳ vọng lớn, chưa tiếp cận và đáp ứng được các tiêu chuẩn, chứng chỉ quan trọng của ngành, hoặc máy móc cũ, xuống cấp không đáp ứng được những đòi hỏi ngày một khắt khe từ thị trường.
Bộ Công Thương đặt mục tiêu đến 2030, có ít nhất 70 % doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí xanh và tuần hoàn. Ảnh minh họa.
Bộ Công Thương hiện phối hợp các địa phương hoàn thành các nhiệm vụ đã đặt ra ở Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; Đề án Tái cơ cấu ngành công thương và các chương trình, chính sách liên quan khác.
Trong đó, mục tiêu đến năm 2030 là nâng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành chế biến, chế tạo lên 45-50%; ít nhất 70% doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí xanh và tuần hoàn; hình thành tối thiểu 5 trung tâm CNHT vùng tại Hà Nội, TP.HCM, Bắc Ninh, Đà Nẵng và Cần Thơ.
Ba nhóm nhiệm vụ trọng tâm được xác định gồm: xây dựng bộ tiêu chí đánh giá doanh nghiệp CNHT xanh; thí điểm “Trung tâm hỗ trợ chuyển đổi xanh CNHT” tại năm địa phương; và kết nối nguồn lực với Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ, Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam nhằm hỗ trợ vốn, công nghệ và tư vấn.
Còn nhiều rào cản
Hành trình tới những mục tiêu này không hề dễ. Các hiệp hội ngành nhận định rằng phần lớn doanh nghiệp CNHT hiện vẫn có quy mô nhỏ, thiếu vốn đầu tư và công nghệ. Ở Hà Nội, nơi tập trung gần 900 doanh nghiệp CNHT, tỷ lệ sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao vẫn còn hạn chế; nhiều cơ sở chỉ đảm nhận khâu gia công, giá trị gia tăng thấp.
Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội thừa nhận, đặc thù của CNHT là chu kỳ đầu tư dài, chi phí máy móc thiết bị lớn trong khi khả năng vay vốn dài hạn của doanh nghiệp nhỏ rất khó khăn.
Cùng với rào cản vốn, trình độ công nghệ và quản trị chất lượng cũng là điểm yếu cố hữu. Để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp phải đáp ứng hàng loạt tiêu chuẩn về độ chính xác, độ ổn định, truy xuất nguồn gốc và quy mô lô hàng. Nhưng phần lớn doanh nghiệp nội vẫn thiếu khả năng đo kiểm, chứng nhận quốc tế và nhân lực kỹ thuật cao. Nếu không có chương trình hỗ trợ kỹ thuật quy mô vùng, chẳng hạn như mạng lưới trung tâm công nghiệp hỗ trợ, thì việc nâng chuẩn sản xuất xanh sẽ rất chậm.
Chuyển đổi xanh, trong khi đó, đòi hỏi nhiều hơn một bản kế hoạch. Các quy định mới như Nghị định 205/2025/NĐ-CP đã mở rộng chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, sử dụng vật liệu tái chế, giảm phát thải CO₂ và tiếp cận tín dụng xanh. Song nhiều doanh nghiệp nhỏ chưa đủ điều kiện tiếp cận những chính sách này vì thiếu chuyên gia tư vấn, thiếu kiến thức kỹ thuật để lập hồ sơ dự án xanh, và thiếu liên kết để giảm chi phí đầu tư.
Sự mất cân đối vùng miền cũng tạo ra khoảng cách. CNHT tập trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng; các tỉnh miền Trung hay Tây Nguyên gần như chưa hình thành cụm sản xuất đồng bộ. Dự kiến 5 trung tâm vùng mà Bộ Công Thương đề xuất sẽ là bước đi nhằm giải quyết tình trạng tập trung cục bộ, giúp doanh nghiệp địa phương có điều kiện tiếp cận công nghệ, đào tạo, và chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn.
Ông Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam. Ảnh: VASI.
Ông Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI) từng nhận xét, rằng CNHT vẫn chưa có khung pháp lý riêng, nên các chính sách hỗ trợ thường rải rác trong nhiều văn bản khác nhau. Theo ông, nếu không có “luật khung” cho CNHT, doanh nghiệp sẽ thiếu nền tảng pháp lý để được bảo vệ và phát triển bền vững. Quan điểm này đang được nhiều chuyên gia ủng hộ, vì nó giúp định vị CNHT như một ngành kinh tế đặc thù thay vì chỉ là phần phụ của công nghiệp chế tạo.
Về phía địa phương, nhiều ý kiến từ các tỉnh, thành phố trọng điểm về CNHT cũng cho rằng cần một “cú hích” về vốn và công nghệ để doanh nghiệp vượt qua giai đoạn chuyển đổi. Nếu không có cơ chế vay ưu đãi trung, dài hạn thì phần lớn doanh nghiệp sẽ đứng ngoài cuộc chơi.
Các chuyên gia kinh tế đều chung quan điểm, giai đoạn tới sẽ là phép thử cho năng lực tự cường công nghiệp của Việt Nam. Nếu tỷ lệ nội địa hóa đạt mục tiêu 45-50 % và phần lớn doanh nghiệp chuyển sang mô hình sản xuất xanh, CNHT không chỉ giúp giảm nhập siêu mà còn trở thành nền tảng cho các ngành xuất khẩu công nghệ cao. Tuy nhiên, làm được điều đó không dễ bởi chính sách cần đi cùng hệ sinh thái hỗ trợ thực chất, từ mạng lưới tư vấn, ngân hàng xanh, đến cơ chế ưu đãi thuế và hạ tầng tiêu chuẩn hóa.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/muoi-nam-kien-tao-cong-nghiep-ho-tro-phat-trien-xanhbai-3thach-thuc-va-dinh-huong-d781078.html






Bình luận (0)