Việt Nam có ba nhóm hệ sinh thái cơ bản là hệ sinh thái biển, trên cạn và đất ngập nước với khoảng 62.600 loài sinh vật đã được xác định. Trong đó có 106 loài sinh vật đặc hữu không có ở nơi nào khác trên thế giới. Ngoài ra, nước ta cũng là một trong các trung tâm nguồn gien cây trồng và vật nuôi với hơn 6.000 giống lúa, 800 loài cây trồng, 887 giống vật nuôi...
Nguồn vốn quan trọng cho sự phát triển
Theo một báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới, 50% GDP toàn cầu phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào thiên nhiên cũng như các dịch vụ khởi nguồn từ hệ sinh thái. Điều đó cho thấy, đa dạng sinh học đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với môi trường sống mà còn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Ở nước ta, một quốc gia có đa dạng sinh học phong phú, giá trị, có thể được coi là “nguồn vốn” quan trọng cho sự phát triển.
Việt Nam có ba nhóm hệ sinh thái cơ bản là hệ sinh thái biển, trên cạn và đất ngập nước với khoảng 62.600 loài sinh vật đã được xác định. Trong đó có 106 loài sinh vật đặc hữu không có ở nơi nào khác trên thế giới.
Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học về môi trường cho thấy, các hệ sinh thái tự nhiên là cơ sở cho phát triển bền vững của nhiều ngành kinh tế, như nông nghiệp, lâm nghiệp, cây dược liệu và du lịch sinh thái. Đa dạng sinh học góp phần bảo đảm an ninh lương thực, tạo nhiều việc làm, duy trì nguồn gien cây trồng, vật nuôi, cung cấp nguồn dược liệu cho đông y, vật liệu cho ngành xây dựng và nhiên liệu.
Đa dạng sinh học tạo nên các cảnh quan thiên nhiên, là khởi nguồn của nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc. Bảo tồn đa dạng sinh học cũng là một trong những giải pháp để tăng cường khả năng chống chịu của xã hội và thích ứng biến đổi khí hậu toàn cầu.
Phó Trưởng đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, ông Patrick Haverman cho biết, quyết tâm của cộng đồng quốc tế trong công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học đã được thể hiện bằng nhiều hành động cụ thể, thiết thực.
Trước nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học trên thế giới, hội nghị COP16 diễn ra tại Colombia năm 2024 một lần nữa thúc giục các quốc gia phải hành động nhanh và mạnh mẽ hơn nữa nhằm đạt các mục tiêu then chốt như: Bảo vệ ít nhất 30% diện tích đất liền và biển; khôi phục ít nhất 30% các hệ sinh thái bị suy thoái; giảm một nửa mức tiêu thụ không bền vững tài nguyên sinh học; tăng cường nguồn tài chính bền vững cho đa dạng sinh học và bảo đảm chia sẻ công bằng lợi ích từ việc sử dụng các nguồn gien.
Ở nước ta, nhận thức rõ tầm quan trọng của đa dạng sinh học đối với sự phát triển, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học.
Tuy vậy, không nằm ngoài thực trạng chung của hầu hết các quốc gia đang phát triển trên thế giới, vấn đề bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng phải chịu sức ép rất lớn từ việc phát triển kinh tế, ô nhiễm môi trường, suy thoái rừng, sự tàn phá do thiên nhiên và con người, sự xâm lấn của các sinh vật ngoại lai và quá trình biến đổi khí hậu đang ngày càng diễn biến cực đoan.
Điều này đòi hỏi chúng ta càng phải nhanh chóng có những hành động cụ thể để bảo vệ và tận dụng được “nguồn vốn” quan trọng từ thiên nhiên cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Quyết tâm và hành động
Theo Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị, vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học ở nước ta đã được đề cập ở nhiều văn bản, chính sách. Để ủng hộ nội dung bảo tồn đa dạng sinh học toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 05/NQ-CP ngày 15/1/2021 ủng hộ cam kết của các nhà lãnh đạo thế giới về thiên nhiên; thông qua Khung toàn cầu Côn Minh-Montreal, ban hành Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050...
Theo số liệu báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đến nay, cả nước có khoảng 42% diện tích rừng, tương đương với gần 14 triệu ha; thành lập 178 khu bảo tồn thiên nhiên; 11 khu dự trữ sinh quyển thế giới; bốn công viên địa chất toàn cầu; chín vùng đất ngập nước quan trọng quốc tế; được công nhận ba di sản thiên nhiên thế giới, 12 vườn di sản ASEAN.
Công tác nghiên cứu, bảo tồn loài, bảo tồn nguồn gien đạt nhiều thành tựu, cùng nhiều giá trị của đa dạng sinh học đối với đời sống và sự phát triển bền vững của các ngành kinh tế đã được chứng minh trên thực tế.
Trong nhiều năm, tại không ít địa phương, mục tiêu phát triển kinh tế thường được đặt lên hàng đầu, trong khi công tác bảo vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học chưa được chú trọng đúng mức. Hệ quả là nhiều hệ sinh thái tự nhiên bị suy giảm, đe dọa nghiêm trọng tới sự cân bằng sinh thái và nguồn tài nguyên lâu dài.
Theo Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình Nguyễn Cao Sơn, địa phương đang đối diện thách thức không nhỏ trong việc bảo tồn đa dạng sinh học. Đó là sự sụt giảm về số lượng loài, số lượng cá thể; vấn đề ô nhiễm môi trường; việc lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; vấn đề rác thải nhựa...
Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn đa dạng sinh học, không chỉ dừng lại ở việc xử lý vi phạm, mà cần lồng ghép mục tiêu bảo tồn vào chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt tại những địa bàn giàu tài nguyên sinh học như Ninh Bình.
Cũng như các quốc gia khác, bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng do sức ép từ xã hội và biến đổi khí hậu. Nhiều diện tích rừng, nhiều loài sinh vật đặc hữu đã biến mất và có nguy cơ biến mất; sự sụt giảm nghiêm trọng về số lượng loài; sự co cụm, suy thoái và mất cân bằng của hệ sinh thái... càng cho thấy yêu cầu cấp thiết phải thực hiện những biện pháp cụ thể và quyết liệt hơn nữa. “Chúng ta cần phải hành động nhanh, quyết tâm và hiệu quả hơn nữa.
Những mục tiêu của GBF và phát triển bền vững chỉ có thể đạt được nếu có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp, nhà khoa học, cộng đồng và hợp tác quốc tế...”, ông Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) khẳng định.
Thời gian tới, để thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam cần nhanh chóng và quyết liệt thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó cần hoàn thiện thể chế pháp luật, cơ chế quản lý, tăng cường năng lực thực thi pháp luật về đa dạng sinh học; lồng ghép bảo tồn đa dạng sinh học trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của các ngành kinh tế.
Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cộng đồng; kiểm soát chặt chẽ các tác động tiêu cực đối với đa dạng sinh học, đặc biệt là các dự án có ảnh hưởng tới môi trường.
Ngoài ra, cần mở rộng hợp tác quốc tế, chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị của đa dạng sinh học; thiết lập, tăng cường hệ thống thông tin, chuyển đổi số trong quản lý cơ sở dữ liệu và quản lý đa dạng sinh học...nâng cao nhận thức.
Nguồn: https://nhandan.vn/nang-cao-hieu-qua-bao-ton-da-dang-sinh-hoc-post883334.html
Bình luận (0)