Bổ sung quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu về cam kết quốc tế
ĐBQH Thạch Phước Bình (Vĩnh Long) ghi nhận, dự thảo Luật lần này đã tiếp cận đúng yêu cầu thực tiễn khi tập trung tinh giản thủ tục, rút ngắn thời hạn xử lý và mở rộng cơ chế linh hoạt trong đàm phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Việc giảm thời gian cho ý kiến kiểm tra và thẩm định xuống còn 10 ngày hoặc 5 ngày theo thủ tục rút gọn là bước tiến lớn, giúp nâng cao tính chủ động và đáp ứng kịp thời các yêu cầu về đối ngoại trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh chiến lược phức tạp.
Để bảo đảm quy định này khả thi, đại biểu Thạch Phước Bình đề nghị cần có cơ chế xác nhận hồ sơ đầy đủ ngay khi tiếp nhận, tránh tình trạng mỗi cơ quan hiểu khác nhau về hồ sơ hợp lệ dẫn tới kéo dài thời gian xử lý.
Đồng thời, đối với những điều ước đa ngành tác động sâu rộng như các hiệp định thương mại, đầu tư, tài chính, quốc phòng thời hạn 10 ngày có thể chưa đủ đáp ứng yêu cầu thẩm định. Vì vậy, nên cân nhắc cơ chế gia hạn có điều kiện cùng với quy định rõ hậu quả pháp lý khi cơ quan không trả lời đúng hạn để bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu quả thực thi.
ĐBQH Nguyễn Tâm Hùng (TP. Hồ Chí Minh) đề nghị, bổ sung trách nhiệm phối hợp liên ngành và cơ chế giải trình bắt buộc nhằm tránh tình trạng một số bộ, ngành đề xuất điều ước nhưng chưa lượng hóa đầy đủ tác động đối với hệ thống pháp luật trong nước. Việc chế định thêm yêu cầu giải trình sẽ giúp nâng cao tính trách nhiệm và bảo đảm điều ước quốc tế được đàm phán trên nền tảng đánh giá đầy đủ tác động đến chính sách.
ĐBQH Nguyễn Thị Lệ Thủy (Vĩnh Long) đề nghị, bổ sung quy định về việc xây dựng cơ sở dữ liệu về cam kết quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cho rằng đây là giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giám sát và thực thi cam kết quốc tế theo quy định của pháp luật, đồng thời, trực tiếp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tiếp cận đầy đủ, kịp thời thông tin về các cam kết quốc tế, tận dụng các cơ hội mà việc tham gia điều ước quốc tế của Việt Nam đem lại.
Đại biểu nhấn mạnh, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về cam kết quốc tế cũng phù hợp với chủ trương của Đảng trong chuyển đổi số và cắt giảm thủ tục hành chính.
Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp kết nối thị trường, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu
Thảo luận về dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, các ĐBQH nhất trí sự cần thiết ban hành Nghị quyết nhằm kịp thời thể chế quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Quan tâm tới nội dung về công tác đối ngoại biên giới tại Điều 17 dự thảo Nghị quyết, ĐBQH Huỳnh Thị Ánh Sương (Quảng Ngãi) đề nghị, bên cạnh quy định nội dung đầu tư xây mới, sửa chữa mốc giới bị hư hỏng, dự thảo Nghị quyết cần bổ sung cơ chế cho phép các địa phương sửa chữa cột mốc điểm cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải trên vùng biển Việt Nam, cho phép địa phương thực hiện hỗ trợ các hoạt động giao lưu văn hóa, trao đổi hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm về y tế, giáo dục với các địa phương láng giềng của nước bạn. Cùng với đó, đề nghị bổ sung công tác đối ngoại trên biển, hải đảo, cụ thể, quan tâm thúc đẩy, tăng cường hợp tác hữu nghị với các quốc gia, vùng lãnh thổ, các địa phương trong khu vực biển Đông để hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường biển, hợp tác nuôi trồng, khai thác, đánh bắt hải sản và thực hiện công tác bảo hộ ngư dân đánh bắt, khai thác thủy, hải sản hợp pháp trên các vùng biển quốc tế.
Bên cạnh đó, đại biểu Huỳnh Thị Ánh Sương cũng thống nhất các quy định tại Điều 7 dự thảo Nghị quyết nhằm tạo điều kiện khuyến khích sự hiện diện của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, góp phần tăng cường sự hiểu biết, nghiên cứu tại Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, hợp tác quốc tế, thống nhất chương trình nghiên cứu Việt Nam và chương trình khách mời của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại khoản 4 điều này.
Quan tâm tới chính sách sử dụng thuế phòng vệ thương mại hỗ trợ doanh nghiệp tại Điều 14 dự thảo Nghị quyết, ĐBQH Tô Ái Vang (Cần Thơ) nhấn mạnh, việc sử dụng thuế phòng vệ thương mại là công cụ quan trọng được pháp luật quốc tế cho phép, nhằm bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh không lành mạnh, song biện pháp này sẽ không đủ sức hỗ trợ doanh nghiệp một cách toàn diện.
Do đó, đại biểu Tô Ái Vang đề nghị, bên cạnh chính sách thuế, dự thảo Nghị quyết xem xét bổ sung một khoản giao Chính phủ quy định chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc cập nhật và cung cấp thông tin về xu hướng của thị trường; tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về Luật Thương mại quốc tế, tiếp cận các mô hình quản trị hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến, đóng gói, bảo quản sản phẩm và kết nối để doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, kết nối với các đối tác tiềm năng và đẩy mạnh việc tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế.
Đại biểu Tô Ái Vang cũng đề nghị, xây dựng cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan hải quan và các đối tác quốc tế để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, giảm bớt các rào cản thương mại, đồng thời giảm bớt tối đa thủ tục hành chính nhằm đảm bảo thông quan nhanh chóng và thuận lợi.
ĐBQH Trần Thị Vân (Bắc Ninh) nêu thực tế, thời gian qua, các vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang tăng nhanh và diễn biến ngày càng phức tạp. Theo thống kê, đến giữa năm 2025, Việt Nam đã phải đối mặt với khoảng 290 vụ việc từ 25 thị trường khác nhau. Việc bị áp thuế phòng vệ thương mại khiến giá xuất khẩu tăng mạnh, giảm sức cạnh tranh, bào mòn lợi nhuận và nguồn lực của doanh nghiệp nhất là trong trường hợp vụ việc bị kéo dài nhiều năm. Nhiều trường hợp, thuế quá cao buộc doanh nghiệp phải rút khỏi thị trường; còn nếu thuế thấp thì lại kìm hãm tốc độ tăng trưởng, làm chậm thời gian mở rộng thị phần. Với doanh nghiệp nhỏ và vừa thì không đủ chi phí để theo đuổi vụ việc, trong khi đây lại chính là đối tượng chịu tác động nặng nề nhất.
Nêu vấn đề trên, đại biểu Trần Thị Vân nhấn mạnh, nếu không có cơ chế hỗ trợ phù hợp thì nguy cơ mất thị trường là hoàn toàn có thể xảy ra cho dù sản phẩm trong nước có chất lượng và năng lực cạnh tranh tốt.
Đại biểu Trần Thị Vân cũng khẳng định, việc xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với phòng vệ thương mại là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, cần thiết kế chính sách phù hợp bảo đảm vừa hỗ trợ được doanh nghiệp nhưng không trái với quy định mà WTO cấm.
Đại biểu Trần Thị Vân đề nghị, dự thảo Nghị quyết quy định rõ nguyên tắc sử dụng ngân sách nhà nước trong việc trích lại một phần tiền thuế nhập khẩu nhằm phục vụ công tác phòng vệ thương mại, bảo đảm phù hợp với cam kết quốc tế và giao Chính phủ hướng dẫn cụ thể.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/nang-cao-hieu-qua-cong-tac-hoi-nhap-quoc-te-10397238.html






Bình luận (0)