Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Nét độc đáo của từ và ngữ Nam Bộ

Nam Bộ (1), một vùng đất mới được khai phá muộn hơn nhiều so với các khu vực khác, dân cư bao gồm nhiều thành phần xuất thân, đến từ nhiều vùng miền, có nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo, có sự giao lưu của nhiều nền văn hóa… nên về mặt ngôn ngữ cũng có những nét riêng, bên cạnh ngôn ngữ chung của cả nước.

Báo Đồng NaiBáo Đồng Nai09/11/2025

Từ điển Từ ngữ Nam Bộ do Nhà Xuất bản Khoa học xã hội xuất bản.
Từ điển Từ ngữ Nam Bộ do Nhà Xuất bản Khoa học xã hội xuất bản.

Hiện nay, Nam Bộ là khu vực có sự phát triển năng động về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa khá nhanh nhưng không vì thế mà tiếng nói của người Nam Bộ bị phai nhạt. Vì vậy, quan tâm dạy và học từ ngữ Nam Bộ là điều cần làm, đó là một cách để gìn giữ và phát huy các vốn đặc sắc về văn hóa của Nam Bộ trong bối cảnh hội nhập.

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Công Tín trong công trình Từ điển từ ngữ Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 2007, từ ngữ Nam Bộ về cơ bản từ ngữ của địa phương Nam Bộ thuộc các lớp: lớp từ Nam Bộ chính gốc (từ ngữ riêng có của phương ngữ Nam Bộ, không thấy xuất hiện ở phương ngữ khác; từ ngữ phản ánh cuộc sống của con người vùng đất Nam Bộ đã được du nhập vốn từ toàn dân hoặc vốn là từ toàn dân nhưng mang nghĩa phản ánh cuộc sống riêng của người dân Nam Bộ; các từ được người dân Nam Bộ nói thành thói quen…); lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ phương ngữ Trung Bộ; lớp từ ngữ Nam Bộ có nguồn gốc từ từ ngữ toàn dân…

Là khu vực có diện tích hơn 64 ngàn km2 (chiếm 19,4% diện tích cả nước), có dân số hơn 35 triệu người (chiếm hơn 36,7% dân số cả nước), Nam Bộ có nét đặc sắc và rất riêng về văn hóa, ngôn ngữ không thể bỏ qua. Tức là, tìm hiểu cũng như dạy từ và ngữ Nam Bộ cho học sinh khu vực Nam Bộ là một đòi hỏi rất có ý nghĩa thực tiễn không chỉ trong giáo dục mà còn trong văn hóa, xã hội.

Trên thực tế, từ và ngữ Nam Bộ có sự đặc sắc riêng, phản ánh đặc điểm địa lý và nếp sống của người dân nơi đây. Ở xứ sở sông nước, đi lại bằng ghe xuồng nên điều này “vận vào” ngôn ngữ khá độc đáo. Chẳng hạn, nói về con nước, người quê tôi có những từ rất đặc biệt. Nước ròng rồi nước đứng, rồi nhửng lớn, lớn một lúc thì đầy mà (ngấn, vệt nước khi nước lớn đầy kinh). Rồi nước đứng và bắt đầu ròng, có khi (vào mùa nước kém) thì nước ròng cạn, tức vẫn còn nước, ghe xuồng tuy không chèo được nhưng có thể chống sào mà đi; nhưng cũng có khi ròng sát, tức là “sát đáy”, hoặc ròng rặc, tức chỉ còn tim nước nhỏ ở giữa dòng thôi. Cạn hơn nữa là ròng kiệt, tức là gần như cạn nước. Ở mùa này, lúc nước lớn thì cũng chỉ là nước ương, tức là nước lớn chậm và không đầy mà, chỉ khoảng 2/3 lòng kinh, rạch rồi dừng lại (đứng lại) không chảy vào thêm mà cũng không vội chảy ra! Dĩ nhiên, chỉ nói con nước ở kinh, rạch thôi, chứ ở sông thì hiếm có đủ các hiện tượng đó, dù nước lớn và ròng thì vẫn thấy rõ. Đến mùa nước rong thì mọi thứ ngược lại. Gần như nước ở đâu đó rủ nhau chảy về, tạo nên hiện tượng nước đổ, mà nước đổ nhiều quá nên tạo ra nước ngập, nước nổi, nhiều hơn nữa thì gây nên nước lụt. Có bữa, nước đổ nhanh quá nên được gọi là nước nhảy, thậm chí nhảy rồi còn bò nữa, vì nước len lỏi lên bờ, lên các nền nhà, lên các giồng, lên các con lộ… Phải ít ngày thì nước mới giựt, để đến con nước sau (rằm hoặc 30) thì lặp lại chu trình. Những con nước thế này thường “được khen” là nước chạy, bởi người ta đóng đáy, đặt nò (còn gọi là đặt đó), xổ đập, giăng lưới… đều trúng (chạy) cả.

Để đi lại trên kinh, rạch, kể cả trên sông, ngoài vàm, dân miền Tây dùng xuồng, ghe, vỏ lãi, tắc ráng (hoặc tác ráng), bo bo, trẹt, có khi còn dùng bắc (phà)... Xuồng thì có xuồng ba lá, xuồng tam bản; lớn thì có xuồng be mười, nhỏ một chút thì xuồng be chín, nhỏ nữa thì có xuồng be tám, gọi chung là xuồng bộng; ghe thì có ghe bầu, ghe be, ghe chài, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe lồng, ghe lườn, ghe ngo…

Bên cạnh đó, có những từ, những cách dùng nếu không quan tâm tìm hiểu thì có thể hiểu sai, dùng sai, viết sai. Chẳng hạn, trong câu sau đây, nhiều người sẽ hiểu nhầm nếu không tìm hiểu về tập quán, ngôn ngữ của người Nam Bộ: “Đến nơi, thấy Vân ngồi lựa thóc, anh hỏi: “Chưa nấu cơm sao em?’”. “Lựa thóc” trong Nam Bộ thường được hiểu là lựa các hạt lúa chưa được xay tróc hết vỏ hoặc các vỏ trấu còn lẫn trong gạo. Và “thóc” không phải là lúa như miền ngoài. Tương tự như vậy, ca “mùi” với người Nam Bộ sẽ được hiểu khác với một số từ điển đã giải thích và từ đây, cũng sẽ gợi mở để hiểu thêm về một loại hình âm nhạc, sân khấu đặc sắc của người dân Nam Bộ là đờn ca tài tử và cải lương.

Nam Bộ là vùng đất mới, là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa như: Việt, Khmer, Hoa, sau này có cả Pháp, Mã Lai, Ấn Độ… nên văn hóa nói chung và ngôn ngữ có sự tiếp biến, pha trộn, đan xen không nhỏ, tạo nên những nét riêng rất thú vị. Tìm hiểu từ và ngữ Nam Bộ chắc chắn sẽ hiểu hơn về con người nơi đây, từ đó càng yêu vùng đất này hơn, cũng là yêu đất nước
Việt Nam hơn!

(1): Trong bài viết này, Nam Bộ được sử dụng để chỉ vùng đất bao gồm các khu vực Đông Nam Bộ (trong đó bao gồm cả Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay) và Tây Nam Bộ; về mặt xã hội, Nam Bộ đại khái chỉ vùng đất từ Đồng Nai (mới) trở vào cho đến Cà Mau.

Nguyễn Minh Hải

Nguồn: https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202511/net-doc-dao-cua-tu-va-ngu-nam-bo-b61014f/


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

G-Dragon bùng nổ cùng khán giả trong đêm diễn tại Việt Nam
Fan nữ mặc váy cưới đến concert G-Dragon ở Hưng Yên
Mê mẩn vẻ đẹp Làng Lô Lô Chải mùa hoa tam giác mạch
Cốm Mễ Trì đỏ lửa, rộn ràng nhịp chày giã vào vụ mới

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Cốm Mễ Trì đỏ lửa, rộn ràng nhịp chày giã vào vụ mới

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm