Trước những băn khoăn này, PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng, Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội cho hay, trong thời gian qua, sự phát triển của công nghệ và trí tuệ nhân tạo đã làm thay đổi rất nhiều ngành nghề. Song những ngành đòi hỏi tay nghề cao, ít phụ thuộc vào trí tuệ nhân tạo và tự động hóa vẫn giữ được tính ổn định.
“Quan điểm của Đại học Bách khoa Hà Nội vẫn kiên định với các ngành khoa học công nghệ cốt lõi – vốn không thể thiếu cho đất nước. Vì thế, trong gần 55 chương trình đào tạo của nhà trường đã bao phủ đầy đủ các ngành công nghệ quan trọng của quốc gia”, ông Thắng nói.
Theo ông Thắng, thay vì chạy theo việc tạo ra những ngành học mới, nhà trường chú trọng điều chỉnh nội dung chương trình để phù hợp hơn với xu hướng phát triển của công nghệ và yêu cầu kỹ thuật mới.
Trường tập trung đào tạo những kỹ sư có kiến thức mang tính liên ngành, chẳng hạn tích hợp robotics với AI hay dệt may thời trang với AI…
“Đây là cách tốt nhất để đáp ứng sự thay đổi về mặt công nghệ, đồng thời người học nhanh chóng áp dụng được kiến thức để đóng góp cho sự phát triển của đất nước”, ông Thắng nói.
PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng cho rằng những nỗi lo một ngành nghề nào đó sẽ biến mất trong thời gian tới phần lớn mang tính phỏng đoán và thiếu cơ sở. Theo ông, các ngành nghề không biến mất mà chỉ đổi thay về bản chất, triết lý làm việc.
Một minh chứng rõ ràng nhất là lĩnh vực Khoa học máy tính. Nếu như trước đây, sinh viên chỉ tập trung vào việc học lập trình thì nay, kỹ năng quan trọng lại là khả năng kiểm tra và kiểm chứng code được sinh ra bởi AI. Điều này cho thấy các ngành cũ vẫn tồn tại, nhưng yêu cầu về năng lực của người học đã thay đổi.
“Do đó chúng ta phải chấp nhận thách thức, sẵn sàng tiếp thu những kiến thức, kỹ năng mới, học tập và sử dụng công nghệ để đồng hành cùng công nghệ phát triển”, PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng nói.
Trong khi đó, PGS.TS Trần Quang Tiến, Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam cho rằng, thay vì đi tìm những ngành “miễn nhiễm với thất nghiệp”, người học nên hiểu những trụ xu hướng đang định hình thị trường lao động trên toàn cầu. Những trụ này bền vững hơn tên gọi của từng ngành và chính là chìa khóa giúp người học đứng vững trước biến động.
Cụ thể theo ông, trụ thứ nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo. Những nghề có khả năng điều khiển, ứng dụng, quản trị hoặc sáng tạo cùng công nghệ, từ phân tích dữ liệu, lập trình, tối ưu vận hành đến sản xuất nội dung số đều sẽ có nhu cầu cao.
“Dù tốc độ tự động hóa nhanh, công nghệ vẫn tạo ra nhiều nghề mới hơn là mất đi, nhưng đòi hỏi người lao động không ngừng cập nhật”, ông nói.
Trụ thứ hai là những ngành đào tạo kỹ năng mang tính xã hội và nhân văn. Đây vốn là lĩnh vực con người làm tốt hơn máy móc, bao gồm tư duy phức hợp, chăm sóc – hỗ trợ, tham vấn, kết nối cộng đồng, thiết kế chính sách xã hội, quản trị rủi ro, lãnh đạo và làm việc trong môi trường đa văn hóa.
Ông Tiến cho rằng trong bối cảnh công nghệ mở rộng, chính các kỹ năng mềm và khả năng hiểu con người trở thành “vùng an toàn” nhất.
Trụ thứ ba là năng lực kinh tế, pháp lý, quản trị thích ứng. Khi thương mại xuyên biên giới, kinh tế số và các mô hình kinh doanh mới nở rộ, những người hiểu cấu trúc kinh tế, quản trị doanh nghiệp, luật pháp liên quan đến giao dịch số và bảo vệ dữ liệu sẽ đặc biệt cần thiết. Khả năng kết hợp kiến thức kinh tế, pháp lý, công nghệ sẽ tạo ra lợi thế vượt trội.
Từ góc độ đó, PGS.TS Trần Quang Tiến nhấn mạnh tính “không lỗi thời” thuộc về những ngành luôn được làm mới, linh hoạt trong ứng dụng công nghệ, đồng thời giữ vững giá trị con người.
“Bên cạnh đó, ngành nào không lỗi thời còn phụ thuộc vào cách đào tạo và cách sinh viên liên tục học hỏi, chứ không phải ở tên ngành. Nếu chương trình gắn với công nghệ, thực tiễn nhu cầu xã hội và phát triển năng lực học tập suốt đời, đó chính là những ngành bền vững trong 10 năm tới”, PGS.TS Trần Quang Tiến nói.
Nguồn: https://vietnamnet.vn/nhung-nganh-hoc-it-loi-thoi-khong-so-that-nghiep-trong-5-nam-toi-2470249.html










Bình luận (0)