Đưa quản lý nuôi biển vào nền nếp
Với mục tiêu trở thành trung tâm nuôi biển của miền Bắc, một trong những kết quả đáng chú ý nhất trong triển khai Chỉ thị số 13 là công tác quy hoạch không gian biển. Toàn tỉnh đã dành hơn 45.000ha vùng biển 9 địa phương (cũ) có biển là: Quảng Yên, Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn, Cô Tô, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Móng Cái cho phát triển NTTS, tích hợp vào Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050. Vùng biển trong 3 hải lý là 23.975ha (53%); vùng biển từ ngoài 3 đến 6 hải lý 13.031ha (28,8%); vùng biển ngoài 6 hải lý là 8.240ha (18,2%).
Trên cơ sở định hướng sử dụng không gian biển để thực hiện NTTS tại Quy hoạch tỉnh, 9 địa phương có biển (cũ) đã hoàn thành việc xây dựng và phê duyệt phương án, đề án, bản đồ, sơ đồ khu vực biển để làm cơ sở giao khu vực biển phục vụ NTTS. Hiện nay, các địa phương đã bàn giao cho UBND xã, phường, đặc khu (sau sắp xếp) tiếp nhận lại toàn bộ hồ sơ, tài liệu có liên quan để tiếp tục quản lý, giao khu vực biển đối với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng khu vực biển thuộc địa bàn quản lý. Qua tổng hợp từ phương án, đề án, bản đồ, sơ đồ khu vực biển của các địa phương, diện tích khu vực biển định hướng để nuôi nhuyễn thể là khoảng 13.000/45.146ha (tương đương khoảng 30%) và khoảng 5.000/45.146ha nuôi cá biển (tương đương khoảng 11%). Phần diện tích còn lại là giao thông nội vùng, khoảng đệm để môi trường tự phục hồi…
Đến thời điểm hiện tại Sở NN&MT theo ủy quyền của UBND tỉnh đã cấp 41 giấy phép NTTS trên biển cho các tổ chức với tổng diện tích khu vực biển đã cấp phép là trên 4.150ha. Ngoài ra, theo thẩm quyền chính quyền cấp xã (trước đây là cấp huyện) đã giao khu vực biển cho 817 cá nhân để thực hiện NTTS với diện tích trên 503ha.
Ông Đỗ Đình Minh, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản (Sở NN&MT) cho biết: Trong công tác giao biển để NTTS, một trong những tiêu chuẩn đầu vào mà các tổ chức, cá nhân phải có đó chính là các tiêu chuẩn đáp ứng về môi trường, bao gồm việc kiểm soát, xử lý các chất thải tạo ra trong quá trình nuôi trồng và sinh hoạt của con người. Đây được đánh giá là bước tiến quan trọng đưa quản lý nuôi biển vào nền nếp. Điều này cũng giúp các ngành chức năng thuận lợi hơn trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng khu vực biển đảm bảo đúng quy định, không gây tác động tiêu cực đến môi trường và cộng đồng ngư dân xung quanh.
Không chỉ dừng lại ở quản lý, Quảng Ninh còn tiên phong ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong nuôi biển. Hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý nuôi trồng, nền tảng truy xuất nguồn gốc sản phẩm với hàng nghìn mã QR đã được đưa vào vận hành. Hơn 30.000 mẫu quan trắc môi trường được phân tích trong 4 năm, giúp kiểm soát dịch bệnh, giảm thiểu rủi ro. Những mô hình nuôi công nghệ cao, nuôi gắn với du lịch cộng đồng tại các địa phương như đặc khu Vân Đồn, phường Cẩm Phả đã chứng minh hướng đi bền vững khi vừa tạo giá trị kinh tế, vừa bảo tồn môi trường sinh thái.
Đến nay, diện tích NTTS trên toàn tỉnh đã tăng hơn 150% so với năm 2020, sản lượng nuôi biển chiếm 65% tổng sản lượng nuôi trồng toàn tỉnh, giá trị sản xuất năm 2024 ước đạt 7.000 tỷ đồng, dự báo đến 2030 đạt trên 16.600 tỷ đồng. Những con số này đã cơ bản phản ánh vai trò chủ lực của ngành kinh tế biển trong bức tranh phát triển chung của tỉnh.
Điều này cũng khẳng định, Chỉ thị số 13 đã tạo ra cú hích mạnh mẽ, đưa ngành nuôi biển Quảng Ninh thoát khỏi tình trạng manh mún, tự phát để bước sang giai đoạn phát triển bền vững, hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa quản lý nhà nước, khoa học công nghệ và nhu cầu thị trường.
Xác định hướng đi cho chặng đường mới
Mặc dù đạt nhiều kết quả nhưng quá trình triển khai Chỉ thị số 13 vẫn bộc lộ không ít khó khăn, hạn chế. Đó là trong công tác giao biển, theo quy hoạch nuôi biển toàn tỉnh là hơn 45.000ha, đến nay mới giao được gần 5.000ha, liên quan về sơ đồ khu vực biển, thủ tục đánh giá tác động môi trường, thu phí thuê mặt biển theo công năng sử dụng, địa phương chậm trễ trong việc ký xác nhận tọa độ, địa điểm NTTS... Mặt khác, vấn đề quy hoạch chồng lấn vẫn chưa được giải quyết triệt để. Đáng chú ý là hồ sơ đề nghị cấp phép, giao khu vực biển NTTS của các tổ chức phải xin ý kiến của các đơn vị có liên quan theo quy định, bao gồm: Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam, Chi cục Hàng hải và Đường thủy phía Bắc, Cảng vụ Hàng hải Quảng Ninh và các sở, ngành: Tài chính, Xây dựng, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Công an tỉnh, Ban Quản lý vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Bái Tử Long, UBND các địa phương có dự án… nên thời gian kéo dài và phát sinh nhiều tình huống phức tạp.
Có trường hợp hồ sơ đã hoàn thiện đủ các thủ tục theo quy định về sơ đồ, môi trường, thuyết minh dự án nhưng vị trí khu vực biển chồng lấn với tuyến luồng hàng hải, tuyến luồng đường thủy nội địa hoặc vùng nước cảng biển nên các cơ quan chức năng trên yêu cầu điều chỉnh ranh giới, vị trí hoặc không chấp thuận cho hoạt động NTTS; có dự án không còn đủ không gian biển để điều chỉnh vị trí, ranh giới nên phải hủy bỏ đề xuất cấp phép, giao khu vực. Một số đơn vị như Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam… thường không có ý kiến tham gia theo lịch hẹn, Sở NN&MT phải có văn bản đôn đốc nhiều lần, thời gian chờ ý kiến kéo dài, trong khi thủ tục hành chính quy định chỉ có 22 ngày làm việc để thực hiện. Điều này gây ảnh hưởng và thiệt hại không nhỏ cho các tổ chức, cá nhân.
Thống kê cho thấy, trong tổng số 93 hồ sơ đang làm thủ tục, hiện có 13 hồ sơ có ranh giới nằm trong vùng đệm của Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long; 4 hồ sơ có ranh giới có một phần diện tích chồng lấn với ranh giới quy hoạch khu neo đậu tránh trú bão, tuyến luồng đường thủy nội địa quốc gia, vùng nước cảng biển, chưa đủ điều kiện cấp phép và giao khu vực biển; 1 hồ sơ có ranh giới vừa nằm trong vùng đệm của Di sản Thiên nhiên Thế giới Vịnh Hạ Long, vừa có một phần diện tích chồng lấn với hành lang an toàn tuyến luồng đường thủy nội địa quốc gia; 26 hồ sơ đã được hướng dẫn thủ tục nhưng chậm hoàn thiện, trình duyệt thủ tục cấp phép và giao khu vực biển; 45 tổ chức đã được bố trí vị trí, địa điểm để nghiên cứu dự án nhưng chậm thực hiện, chưa gửi hồ sơ tới Sở NN&MT; 27 tổ chức chưa được địa phương bố trí vị trí, địa điểm...
Bên cạnh đó, công tác quản lý ở một số địa phương còn lỏng lẻo, để xảy ra tình trạng NTTS trái phép, gây mất an ninh trật tự, thậm chí phát sinh khiếu nại, tố cáo. Nguồn nhân lực chuyên môn về thủy sản tại cơ sở còn thiếu, dẫn đến kiểm tra, giám sát chưa kịp thời, hiệu quả. Một điểm nghẽn khác là khung pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật hiện vẫn thiếu bộ quy chuẩn địa phương về nuôi biển, trong khi nhiều khái niệm pháp lý chưa theo kịp thực tiễn. Điều này khiến các dự án khó có căn cứ khoa học để triển khai, đánh giá. Chất lượng dự án do doanh nghiệp lập còn hạn chế, nhiều bản thuyết minh sơ sài, sao chép, thiếu tính khả thi.
Nhìn từ thực tế cho thấy, phần lớn nguyên nhân xuất phát từ sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các ngành, địa phương và trung ương và từ ý thức tuân thủ chưa nghiêm của một bộ phận tổ chức, cá nhân. Đồng thời, hệ thống pháp luật còn bất cập so với nhu cầu phát triển nhanh và hiện đại của nuôi biển.
Để khắc phục những bất cập trên, Quảng Ninh đã xác định các giải pháp và phương hướng rõ ràng trong thời gian tới. Trong đó, sẽ tập trung hoàn thiện việc cấp phép, giao biển, xử lý dứt điểm các cơ sở trái phép; ban hành bộ Quy chuẩn kỹ thuật địa phương về nuôi biển, tập trung vào đối tượng cá biển, nhuyễn thể và loài đặc sản; tăng cường phối hợp liên ngành, đặc biệt với các cơ quan hàng hải và bảo tồn di sản, để bảo đảm hài hòa lợi ích; đẩy mạnh khoa học - công nghệ, phát triển mô hình nuôi công nghiệp, nuôi xa bờ; chủ động nguồn giống chất lượng cao, sớm đưa vào hoạt động Trung tâm giống nhuyễn thể Vân Đồn và khu nông nghiệp công nghệ cao Đầm Hà; đầu tư hạ tầng nghề cá hiện đại, gắn sản xuất với cảng cá, khu neo đậu, dịch vụ hậu cần; phát triển chế biến sâu và xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị gia tăng, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Ông Phan Thanh Nghị, Phó Giám đốc Sở NN&MT, cho biết: Những hạn chế và nguyên nhân được chỉ ra là bài học thực tiễn quý báu để Quảng Ninh tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế quản lý và chiến lược phát triển nuôi biển trong giai đoạn mới. Với quyết tâm cao và hướng đi rõ ràng, ngành thủy sản Quảng Ninh hoàn toàn có thể vươn lên trở thành mũi nhọn kinh tế, góp phần giữ vững vị thế tiên phong của tỉnh trong phát triển kinh tế biển bền vững.
Nguồn: https://baoquangninh.vn/nuoi-bien-quang-ninh-khoi-sac-nhung-chua-tron-ven-3377782.html






Bình luận (0)