Phụ nữ - thước đo trình độ phát triển của xã hội
Các cuộc cách mạng sẽ chẳng bao giờ là thành công nếu không giải phóng và phát huy được vai trò của phụ nữ - những người chiếm một nửa phần còn lại của nhân loại. Thế nhưng trong lịch sử phát triển của xã hội nhân loại ở nhiều thời đại và nhiều quốc gia, phụ nữ không được đánh giá đúng sự cống hiến và vai trò của họ đối với xã hội. Sự tiến bộ của xã hội được nhìn nhận không phải chỉ ở sức sản xuất, cách thức tạo ra của cải... mà còn phải được nhìn nhận từ sự thừa nhận vai trò, tôn trọng và phát huy vai trò của phụ nữ.
Charles Fourier (1772 - 1837) nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XIX đã từng nhận định: “Trong một xã hội nhất định, trình độ giải phóng phụ nữ là thước đo tự nhiên của sự giải phóng chung”. Ở đây, theo tác giả, sự giải phóng phụ nữ không chỉ dừng lại ở sự thừa nhận của pháp luật về sự bình đẳng của phụ nữ với đàn ông về quyền công dân, mà đó là sự cần thiết phải được giải phóng về các năng lực, khả năng cống hiến cho xã hội.
Phụ nữ Việt Nam – chủ nhân kiến tạo nền độc lập, chủ quyền dân tộc
Việt Nam trải qua mấy ngàn năm văn hiến, ở những giai đoạn mang tính chất bước ngoặt của lịch sử dân tộc, đều có sự đóng góp quan trọng của người phụ nữ. Như một lẽ rất tự nhiên, dù trải qua cả thời kỳ nhiều ngàn năm phong kiến, trong đó là cả một nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc. Nhưng trong ý thức hệ của người Việt từ xưa cho đến nay, phụ nữ luôn rất được coi trọng, điều đó thể hiện trong đời sống văn hoá và ngôn ngữ của người Việt: “đất mẹ” là khái niệm có thể được sử dụng như một từ đồng nghĩa khi nói về Tổ quốc; “máy cái” là khái niệm dùng để chỉ nhân tố, yếu tố quan trọng, có tính chất quyết đinh nhất trong một tổ chức, đơn vị; “ba đồng một mớ đàn ông/đem thả vào lồng cho kiến nó tha/ba trăm một mụ đàn bà/ đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi”; danh hiệu “Mẹ việt Nam anh hùng”... Nhưng, những sự tôn vinh đó không phải được nảy sinh từ lòng hảo tâm, hay ý chí bị cưỡng bức của đàn ông hay xã hội... mà đó là kết quả có được từ chính vai trò, sự cống hiến, hy sinh và năng lực tự thân phát triển của phụ nữ Việt Nam qua lớp lớp thế hệ.
Sự cống hiến, hy sinh và vai trò của phụ nữ Việt Nam là không thể đong đếm và kể hết bởi bất kỳ cách diễn đạt và bằng hình thức thể hiện nào. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ xin điểm qua một vài lát cắt nhỏ trong sự cống hiến của phụ nữ Việt Nam trước những yêu cầu của lịch sử dân tộc:
Có lẽ rằng, trên thế giới không có nhiều quốc gia mà chủ nghĩa yêu nước đã trở thành một truyền thống quý báu, dòng chủ lưu để định hình những giá trị văn hoá của dân tộc, và ý chí, tinh thần “độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ” trở thành một trong những triết lý bảo vệ Tổ quốc “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Trước sự xâm lược của các thế lực ngoại bang đến từ nhiều phía, trong nhiều thời kỳ lịch. Lớp lớp thế hệ phụ nữ Việt Nam đã cùng toàn thể dân tộc đứng lên đấu tranh, hy sinh để giành, giữ quyền độc lập dân tộc. Họ (những phụ nữ Việt Nam) có thể là “Bà Trưng”, “Bà Triệu”... trong cuộc đấu tranh chống lại thế lực ngoại bang phương Bắc, những người mà tên tuổi đã trở thành một phần của sông núi đất Việt, là nhiều triệu người khác đã hy sinh, cống hiến thầm lặng để những người chồng, người con ra mặt trận và nén nỗi đau mất mát của riêng mình để cho đất nước được độc lập, nhiều gia đình khác được đoàn viên.
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh cũng đã chứng kiến những hy sinh, đóng góp và cống hiến quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Họ là những người đã góp phần làm nên sức mạnh oanh liệt của một “dân tộc nhỏ” mà anh dũng thắng những “đế quốc to”, đó là những người như Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Ngô Thị Tuyển, người đã đi vào lịch sử như một huyền thoại, với kỳ tích vác hòm đạn nặng hơn gấp đôi trọng lượng cơ thể; người phụ nữ kiên trung Trần Thị Thanh Lịch, bị địch ba lần cưa chân vẫn không chịu khuất phục; là Anh hùng lao động Nguyễn Thị Bình với tuyên bố đanh thép “Người Mỹ có thể lên Mặt trăng và trở về an toàn. Còn sang Việt Nam, thì chúng tôi không chắc”; là những người mẹ đã bao lần tiễn con đi mà không thể tái ngộ nên “nước mắt mẹ không còn”; họ là rất nhiều những người con tiêu biểu như Chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng” và Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”...
Phụ nữ Việt Nam – chủ nhân xây dựng đất nước đổi mới, ngang tầm kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phụ nữ Việt Nam đã luôn cống hiến tâm sức, trí tuệ để kiến tạo một xã hội mới, trong những thời điểm khó khăn nhất, đã có những người phụ nữ dũng cảm cùng “phá rào” để chứng minh cho tính tất yếu khách quan của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, đó là bà Ba Thi (Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới Nguyễn Thị Ráo), người được biết đến như người “góp lửa” đổi mới ở Việt Nam.
Trải qua 40 năm đổi mới đất nước và 35 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước Việt Nam đã có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín chưa bao giờ có. Thành tựu của đất nước hiện nay có sự đóng góp rất lớn từ bàn tay, khối óc, đức hy sinh của người phụ nữ Việt Nam. Việt Nam hôm nay đang đứng trước thời cơ lớn, đó là cơ hội hiện thực hoá khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những cũng đứng trước nhiều thách thức của thời đại... đòi hỏi cần có sự cùng đương đầu và vượt qua của toàn xã hội. Thì thêm một lần nữa phụ nữ Việt Nam đang chứng tỏ được vai trò, vị thế và năng lực chủ thể trước thời cơ và thách thức của bối cảnh.
Sự xuất hiện ngày càng phổ biến những gương mặt phụ nữ tiêu biểu trong bộ chính chính trị của Đảng, Nhà nước; những đóng góp và thành tích của phụ nữ trên các mặt trận như với các gương mặt điển hình như: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đổi mới Trung tá Lê Thị Hằng - Giám đốc Trung tâm C4 (Viện Hàng không vũ trụ Viettel, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội) đã tham gia nghiên cứu, làm chủ công nghệ lõi, góp phần phát triển ngành công nghiệp tên lửa của Việt Nam; PGS.TS Trần Ngọc Mai mới hơn 30 tuổi nhưng đã sở hữu tới 31 bài báo khoa học đã công bố ở cả trong và ngoài nước cùng hàng loạt nghiên cứu mang tính ứng dụng cao về chuyển đổi số, phát triển bền vững chính phủ điện tử, thương mại di động, giảm thiểu phát thải CO2, logistics xanh; PGS.TS Phạm Thu Hương tốt nghiệp trường Đại học Ngoại thương vào năm 2000, được bổ nhiệm giữ chức hiệu trưởng trường Đại học Ngoại thương (01/7/2025)...
Tỉnh Sơn La hôm nay, đang được biết đến như một địa phương đã vươn mình vượt qua ý niệm về một nơi “rừng thiêng nước độc”, để trở thành một điểm sáng về tinh thần yêu nước, cống hiến và vươn lên làm giàu trên những tiềm năng và thế mạnh. Dù cho nhìn trên bình diện cả nước, hôm nay Sơn La vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng tại mảnh đất giàu truyền thống cách mạng này, chắc chắn sẽ kết nhiều quả ngọt cho mai sau. Nhưng tương lai ấy, chắc chắn không thể thiếu đi vai trò cống hiến từ bàn tay, khối óc và vươn mình của phụ nữ. Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XVI (nhiệm kỳ 2025 - 2030) đã khẳng định vị thế và vai trò của phụ nữ, khi có đến 10 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, trong đó có 03 đồng chí tham gia Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Từ những nội dung đã nêu trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: phụ nữ Việt Nam đã phát triển ngang tầm chủ thể xây dựng đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Hoàng Văn Sơn - Trường Chính trị tỉnh
Nguồn: https://sonla.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/noi-dung/phu-nu-viet-nam-chu-the-ngang-tam-ky-nguyen-moi-5635.html






Bình luận (0)