Bản án, quyết định của tòa án phải được cơ quan, tổ chức, mọi công dân tôn trọng
Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) được Quốc hội thông qua bao gồm 5 chương, 116 điều, đã thể chế hoá quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn, đổi mới hệ thống thi hành án dân sự, đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá và chuyển đổi số trong công tác thi hành án dân sự.
Về nguyên tắc thi hành án dân sự, Luật quy định, bản án, quyết định quy định tại Điều 2 của Luật này phải được cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án.
Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án. Người có hành vi cản trở việc tổ chức thi hành án, người đang quản lý, chiếm hữu, sử dụng tài sản thi hành án, người đang trông giữ người chưa thành niên nếu không thực hiện theo yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự thì có thể bị cưỡng chế theo quy định của Luật này.
Lợi ích của Nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Tiếng nói và chữ viết dùng trong thi hành án dân sự là tiếng Việt. Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình nhưng phải có người phiên dịch. Trường hợp người đó là người dân tộc thiểu số mà không biết tiếng Việt hoặc là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn thì cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thi hành án dân sự phải bố trí hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền bố trí phiên dịch.
Luật quy định cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan có chức năng tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định của Luật này và quy định của pháp luật có liên quan.
Cơ quan thi hành án dân sự có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, có tư cách pháp nhân, con dấu có hình Quốc huy, trụ sở và tài khoản riêng. Người đứng đầu cơ quan thi hành án dân sự là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Cơ cấu tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố bao gồm các đơn vị sau đây: Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; Phòng Thi hành án dân sự khu vực; các đơn vị cấp phòng khác.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định tên gọi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định tên gọi, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thi hành án cấp quân khu.
Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) cũng quy định rõ về Văn phòng thi hành án dân sự. Theo đó, Văn phòng thi hành án dân sự là tổ chức hành nghề của Thừa hành viên để thực hiện việc tổ chức thi hành án và các công việc khác theo quy định của pháp luật.
Văn phòng thi hành án dân sự do 1 Thừa hành viên thành lập được tổ chức theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân đồng thời là Trưởng văn phòng thi hành án dân sự và phải là Thừa hành viên đã hành nghề Thừa hành viên từ đủ 2 năm trở lên.
Văn phòng thi hành án dân sự do 2 Thừa hành viên trở lên thành lập được tổ chức theo loại hình công ty hợp danh. Trưởng văn phòng thi hành án dân sự phải là thành viên hợp danh của văn phòng thi hành án dân sự và đã hành nghề Thừa hành viên từ đủ 2 năm trở lên.
Sẽ chưa trao quyền cưỡng chế thi hành án toàn diện cho Văn phòng thi hành án dân sự
Trước khi biểu quyết thông qua, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số vấn đề lớn trong giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi).
Theo đó, về Văn phòng thi hành án dân sự, Thừa hành viên và thẩm quyền cưỡng chế thi hành án (Điều 17, Điều 30), nhiều ý kiến đề nghị mở rộng thẩm quyền cho Văn phòng thi hành án dân sự, Thừa hành viên được áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án để nâng cao hiệu quả xã hội hóa thi hành án dân sự.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự đã được đề ra tại nhiều văn bản của Đảng, tuy nhiên cưỡng chế thi hành án là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, tác động trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân (tài sản, cư trú...). Việc trao quyền này cho Văn phòng thi hành án dân sự là tổ chức ngoài công lập tiềm ẩn rủi ro về an ninh, trật tự nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho phép quy định theo hướng: chưa trao quyền cưỡng chế thi hành án toàn diện cho Văn phòng thi hành án dân sự. Thừa hành viên chỉ có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền thực hiện phong tỏa tài khoản, tài sản, tạm dừng giao dịch để ngăn chặn tẩu tán tài sản.
Về thời hạn và thủ tục thi hành án (Điều 35, Điều 37, Điều 83), nhiều ý kiến đề nghị rà soát, rút ngắn các thời hạn trong quy trình tổ chức thi hành án để giảm thiểu chi phí, thời gian thi hành án theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Báo cáo nêu rõ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý rút ngắn nhiều thời hạn quan trọng trong quy trình tổ chức thi hành án như: thời hạn xác minh điều kiện thi hành án, thời hạn thông báo thi hành án, thời hạn ký hợp đồng khai thác tài sản thi hành án, thời hạn ưu tiên mua tài sản thi hành án….
Bên cạnh đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát, tiếp thu tối đa ý kiến ĐBQH để hoàn thiện các quy định về xử lý tài sản đặc thù (tài sản số, tiền ảo), chuyển giao kho vật chứng về Bộ Công an quản lý, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án và nhiều quy định khác của dự thảo Luật.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/quoc-hoi-thong-qua-luat-thi-hanh-an-dan-su-sua-doi-10399376.html










Bình luận (0)