GS Nguyễn Văn Tuấn cho biết, đề xuất cho phép các trường đại học trọng điểm, đủ điều kiện được tự xét và phong GS-PGS là một xu hướng đúng đắn. Ở phương Tây và châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), các đại học tự bổ nhiệm GS mà không cần qua hội đồng trung ương. Ở Việt Nam, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cũng từng tự bổ nhiệm GS cho trường.
Việc trao quyền này có 3 lợi ích:
Tăng tính cạnh tranh nội tại: Trường tự bổ nhiệm GS phải chịu trách nhiệm trước xếp hạng quốc tế.
Thu hút nhân tài quốc tế: Vì không còn phải chờ Hội đồng Nhà nước 3-5 năm mới được “phong”, trường có thể mời tiến sĩ từ nước ngoài về làm GS ngay.
Nâng cao chất lượng đào tạo: Ở phương Tây, GS phải có vài nghiên cứu sinh bảo vệ thành công trong thời gian nhất định, nếu không sẽ bị giáng chức. Nếu Việt Nam áp dụng được, chất lượng đào tạo sẽ tốt hơn.
Minh bạch, hậu kiểm và trách nhiệm trong cơ chế tự phong GS-PGS
Nhà báo: Thưa GS Nguyễn Văn Tuấn, trước đề xuất một số trường đại học trọng điểm, đạt chuẩn có thể tự phong giáo sư, có một số lo ngại về việc xuất hiện tình trạng “loạn danh xưng” hoặc “chạy danh hiệu”. Ông nhận định thế nào về rủi ro này, cần cơ chế kiểm soát gì khi đại học được tự xét và phong GS-PGS?
GS Nguyễn Văn Tuấn: Rủi ro lúc nào cũng có, nhưng tôi nghĩ không cao. Khi đại học xét duyệt chức danh GS, họ phải để ý đến ngân sách và uy tín. Uy tín là yếu tố sống còn đối với một đại học, vì việc phong GS tràn lan sẽ làm mất niềm tin xã hội, ảnh hưởng đến danh tiếng và khả năng thu hút nhân tài. Do đó, các trường sẽ tự điều chỉnh để tránh “loạn danh xưng”.
Thực tế, ở Trường Đại học Tôn Đức Thắng, trong 3 năm tự bổ nhiệm, số GS thực thụ chỉ 1 người, còn PGS và GS trợ lý không quá 10.
Ngay cả khi các chức danh này được xét duyệt bởi hội đồng nhà nước, cũng có ý kiến nói đã xảy ra tình trạng lạm phát danh hiệu.
 
  - Việc gắn quyền phong học hàm với trách nhiệm giải trình của nhà trường nên được thiết kế như thế nào để đảm bảo minh bạch, công bằng?
Để đảm bảo minh bạch và công bằng khi các trường được trao quyền tự xét và phong GS-PGS, cần có cơ chế kiểm soát ba tầng: Công khai - Hậu kiểm - Chế tài.
Công khai thông tin: Hồ sơ ứng viên (CV, công bố khoa học, thư bình duyệt, biên bản họp hội đồng) phải được đăng công khai trên website trường ít nhất 90 ngày trước khi phỏng vấn, để cộng đồng học thuật giám sát và phản hồi, phát hiện sai lệch, gian dối, tạo ra áp lực minh bạch tự nhiên.
Hậu kiểm độc lập: Sau khi trường công nhận chức danh, cần có Ủy ban Khiếu nại Quốc gia gồm 50% thành viên ngoài ngành giáo dục và khoảng 30% chuyên gia quốc tế, nhằm đảm bảo chuẩn mực và khách quan. Nếu phát hiện sai phạm, chức danh bị hủy và công khai kết quả xử lý.
Chế tài và trách nhiệm giải trình: Trường đại học chịu trách nhiệm hoàn toàn về quyết định phong chức danh. Nếu sai phạm, có thể bị đình chỉ quyền tự xét; các thành viên hội đồng vi phạm bị kỷ luật hoặc cấm tham gia các nhiệm kỳ sau. Cách làm này giúp quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm.
Bài học quốc tế và điều kiện để Việt Nam thí điểm tự phong GS-PGS
- Ông có thể chia sẻ kinh nghiệm quốc tế trong việc xét và phong GS-PGS? Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi thực hiện?
Ở các nước phương Tây, việc bổ nhiệm GS-PGS do các trường đại học thực hiện, không có hội đồng nhà nước can thiệp. Quá trình này nghiêm ngặt và minh bạch, dựa trên cơ chế bình duyệt khoa học (peer review).
Hồ sơ ứng viên được gửi cho các GS uy tín ở đại học danh tiếng trong cùng chuyên ngành để họ đánh giá độc lập. Hội đồng trường dựa trên kết quả bình duyệt và phỏng vấn để quyết định bổ nhiệm. Cách làm này đảm bảo tính khách quan, khoa học và hạn chế “chạy danh hiệu”.
Từ kinh nghiệm đó, Việt Nam có thể học hỏi: Áp dụng cơ chế bình duyệt độc lập với chuyên gia trong và ngoài nước; Công khai quy trình xét duyệt, tiêu chí rõ ràng về năng lực nghiên cứu, giảng dạy; Đặt uy tín học thuật lên hàng đầu - chức danh phải phản ánh năng lực thật, không phải danh xưng hành chính.
Trao quyền đi đôi với trách nhiệm, các trường được quyền tự phong chức danh thì cũng phải chịu trách nhiệm về chất lượng giảng viên và uy tín của mình trong giới học thuật.
- Theo ông, nếu đại học Việt Nam được tự xét và phong GS-PGS thì nên theo tiêu chuẩn nào, dựa vào khung chung của Nhà nước hay mỗi trường có một bộ tiêu chí riêng?
Cần có tiêu chuẩn tối thiểu về bài báo khoa học, chất lượng nghiên cứu, uy tín học thuật, khả năng lãnh đạo khoa học… Trên cơ sở đó, mỗi trường xây dựng bộ tiêu chí riêng phù hợp đặc thù và định hướng phát triển, thường cao hơn khung chung để khẳng định uy tín.
Ở Australia, nhóm đại học hàng đầu Go8 có tiêu chuẩn xét phong GS cao hơn các nhóm khác, cho thấy việc cho phép các trường điều chỉnh tiêu chuẩn riêng là cần thiết và phù hợp với tinh thần tự chủ.
- Những trường đại học đủ điều kiện như thế nào thì nên được thí điểm để xét - phong GS-PGS?
Chỉ nên giao cho những đại học thực sự có năng lực nghiên cứu mạnh và uy tín học thuật cao, tức là các đại học nghiên cứu (research university). Cụ thể các trường phải có: Quy trình và tiêu chuẩn bổ nhiệm công khai, minh bạch; Đội ngũ học thuật mạnh, ít nhất 20 GS thực thụ ở nhiều chuyên ngành; Hội đồng xét duyệt có sự tham gia của GS từ các đại học uy tín trong và ngoài nước: Tối thiểu 30% giảng viên có bằng tiến sĩ từ đại học thuộc top 200 QS; Thành tích nghiên cứu nổi bật, được tài trợ bởi các quỹ khoa học trong và ngoài nước. Việc thí điểm nên được giám sát bởi Bộ GD-ĐT hoặc hội đồng kiểm định độc lập để bảo đảm quyền tự chủ đi đôi với chuẩn mực học thuật.
- Ông đề xuất gì khi thí điểm hoặc triển khai cơ chế tự xét, phong GS-PGS tại các trường đại học Việt Nam?
Điều quan trọng nhất là siết chặt tiêu chuẩn và tập trung vào chất lượng khoa học hơn là số lượng. Khi tiêu chí bổ nhiệm được nâng cao và gắn liền với thành tựu học thuật thực chất, thì hiện tượng “lạm phát” GS-PGS sẽ không thể xảy ra.
Trước đây, tôi có đề nghị 5 biện pháp để khắc phục khiếm khuyết trong quá trình công nhận chức danh GS:
Thứ nhất, xác định tập san chính thống. Vấn đề hiện nay là sự lẫn lộn giữa tập san dỏm và tập san chính thống. Sau vụ lùm xùm xét duyệt chức danh GS năm 2020, Hội đồng ngành y đã quyết định lấy các tập san trong danh mục Web of Science (WoS), Scopus, PubMed và ESCI (Emerging Sources Citation Index) là “tập san uy tín”. Các ứng viên có bài trên các tập san trong các danh mục này sẽ được xét công nhận chức danh GS.
Thứ hai, xem xét đến uy tín của tập san khoa học. Trên thế giới, có hơn 50.000 tập san khoa học tạm xem là chính thống, và các tập san này nằm trong 2 danh mục chính là WoS (28.560 tập san) và Scopus (37.535 tập san). Nhìn chung, danh mục WoS chọn lọc hơn là Scopus, vì Scopus có xu hướng thu nạp những tập san có phẩm chất thấp và cả tập san dỏm.
Thứ ba, phải phân biệt thể loại bài báo khoa học. Hiện nay, tiêu chuẩn để công nhận chức danh GS là 5 bài, còn PGS là 3 bài. Nhưng quy định không nói bài báo đó là gì. Theo tôi, đó là một thiếu sót nghiêm trọng. Trong thực tế, có nhiều loại bài báo khoa học và giá trị của các bài báo không tương đương nhau.
Thứ tư, xem xét đến vai trò của tác giả trong bài báo khoa học. Ngày nay, nghiên cứu khoa học là một môi trường hợp tác đa ngành, do đó mỗi bài báo có nhiều tác giả. Tính trung bình, một bài báo y khoa có khoảng 5-7 tác giả. Nhưng trong thực tế cũng có những trường hợp tập đoàn khoa học mà bài báo có hơn 1.000 tác giả. Do đó, vấn đề đặt ra là làm sao đánh giá được đóng góp của tác giả ứng viên trong bài báo.
Thứ năm, hãy bỏ sự lệ thuộc vào con số bài báo. Theo tôi, không nên quy định về số bài báo khoa học, vì số lượng không nói lên chất lượng. Ngoài ra, sự lệ thuộc này rất dễ bị lạm dụng bằng cách công bố những nghiên cứu nhỏ và không quan trọng. Tôi đề nghị dùng chỉ số H để đánh giá. Ứng viên có chỉ số H bằng 10 có nghĩa là ứng viên đó đã công bố 10 bài báo khoa học, với số lần trích dẫn tối thiểu là 10. Do đó, chỉ số H phản ánh cả số lượng và chất lượng; chỉ số này được các hội đồng đề bạt chức danh GS nước ngoài sử dụng rất phổ biến.
    
Nguồn: https://vietnamnet.vn/tu-chu-phong-giao-su-uy-tin-hoc-thuat-la-hang-rao-bao-ve-chat-luong-2457836.html

![[Ảnh] Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Lễ trao Giải báo chí toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực lần thứ 5](https://vphoto.vietnam.vn/thumb/1200x675/vietnam/resource/IMAGE/2025/10/31/1761881588160_dsc-8359-jpg.webp)




![[Ảnh] Đà Nẵng: Nước rút dần địa phương tranh thủ dọn dẹp](https://vphoto.vietnam.vn/thumb/1200x675/vietnam/resource/IMAGE/2025/10/31/1761897188943_ndo_tr_2-jpg.webp)








































































Bình luận (0)