Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII (2021) diễn ra trong bối cảnh thế giới diễn biến nhanh, phức tạp, bất ổn, khó lường, khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi, xuất hiện những thay đổi mang tính thời đại, nhiều vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ. Đặc biệt, đại dịch Covid-19, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh, sâu sắc và toàn diện, nhất là trí tuệ nhân tạo (AI). Kinh tế thế giới suy giảm và bất ổn dưới tác động của xung đột thương mại, sự điều chỉnh chính sách thương mại của nước lớn và những vấn đề an ninh toàn cầu.
Việt Nam bị tác động sâu sắc bởi những yếu tố bất lợi từ bên ngoài, chịu ảnh hưởng nặng nề, kéo dài của đại dịch Covid-19, thảm hoạ thiên tai, xung đột thương mại... vừa phải xử lý các hạn chế, bất cập nội tại kéo dài, vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp, đột xuất mới phát sinh.
Toàn cảnh Hội nghị Trung ương 13 (Ảnh minh họa: TTXVN)
“Trong bối cảnh rất nhiều khó khăn, thách thức, với ý chí, khát vọng phát triển, kiến tạo tương lai, tư duy đổi mới, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII. Đảng ta vững vàng lãnh đạo đất nước tiếp tục đạt được những kết quả rất quan trọng, toàn diện, đột phá, nhiều điểm sáng nổi bật”, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đang lấy ý kiến nhân dân nhấn mạnh.
Thuộc nhóm nước tăng trưởng cao; xếp hạng hạnh phúc tăng 33 bậc
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV cho thấy tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 đạt bình quân khoảng 6,3%/năm, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Quy mô GDP năm 2025 ước đạt trên 510 tỷ USD, gấp 1,47 lần so với năm 2020, xếp thứ 32 trên thế giới; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000USD, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình cao, được nhiều tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao.
Chất lượng tăng trưởng có bước chuyển biến tích cực, đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%.
Một trong những điểm sáng là đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tập trung vốn đầu tư công cho các công trình trọng điểm quốc gia, có sự lan toả cao, kết nối vùng, liên vùng, khắc phục cơ bản tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán. Hoạt động sản xuất kinh doanh của một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã có hiệu quả, giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế.
Đổi mới cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt từ năm 2025 khẳng định phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Bước đầu hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
“Đổi mới mạnh mẽ tư duy, cách làm trong xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật; tập trung điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện pháp luật theo hướng phân cấp, phân quyền triệt để, đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong thực thi”, dự thảo báo cáo chính trị nêu.
Những năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển bứt phá, nhiều công trình hạ tầng quan trọng quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển, hạ tầng số… góp phần làm thay đổi diện mạo đất nước và mở ra không gian phát triển mới.
Việc đầu tư phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, nhất là công nghệ cao, được chú trọng. Thể chế, chính sách và nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa được tăng cường. Hệ thống thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng và phát huy. Các hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa, nghệ thuật ngày càng đa dạng, phong phú. Công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và thị trường văn hóa từng bước được phát triển.
Bên cạnh đó, việc phát hiện, thu hút, đào tạo, trọng dụng nhân tài bước đầu có chuyển biến tích cực. Chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện rõ rệt, tăng 14 bậc, đạt 0,766 điểm, thuộc nhóm nước phát triển con người cao. Chỉ số xếp hạng hạnh phúc tăng 33 bậc so với đầu nhiệm kỳ, xếp thứ 46/143 quốc gia.
Cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV nhận định, công tác xây dựng Đảng về chính trị tiếp tục được chú trọng, tăng cường. Công tác xây dựng Đảng về cán bộ được đặc biệt chú trọng, có nhiều đổi mới góp phần xây dựng toàn diện đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Đặc biệt, lần đầu tiên hoàn thành việc bố trí 100% bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp xã không phải là người địa phương; 50% chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp tỉnh không phải là người địa phương và bảo đảm hoàn thành bố trí chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp tỉnh không phải là người địa phương từ đầu nhiệm kỳ 2025-2030.
Phương án bố trí nhân sự Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, chánh thanh tra tỉnh, thành phố không phải người địa phương được xây dựng trước và ngay sau Đại hội XIV của Đảng.
Bên cạnh đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, có bước tiến mạnh, đột phá lớn.
Phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả hơn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ những nút thắt, điểm nghẽn, ứng phó nhanh, rất kịp thời, hiệu quả với các tình huống khó khăn, phức tạp, chưa từng có tiền lệ, được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình, đánh giá cao.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đi vào hoạt động từ ngày 1/3 trên cơ sở sáp nhập Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Ảnh: Văn Ngân).
Cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đã đạt được những kết quả mang tính đột phá. Hệ thống tổ chức, các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương được tổ chức lại đồng bộ, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Kết thúc hoạt động của các đảng đoàn, ban cán sự đảng, lập các đảng bộ mới ở Trung ương và cấp tỉnh; giảm nhiều cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương, cấp tỉnh và đầu mối bên trong.
Kết quả đã sáp nhập, giảm 29 đơn vị hành chính cấp tỉnh, giảm 7.277 đơn vị hành chính cấp xã, không tổ chức đơn vị hành chính cấp huyện; tổ chức lại hệ thống quân đội và công an ở địa phương, thanh tra, toà án, viện kiểm sát, các cơ quan, đơn vị quản lý theo ngành dọc.
Sắp xếp các tổ chức đảng ở địa phương đồng bộ với các cơ quan, đơn vị, tổ chức của hệ thống chính trị theo mô hình tổ chức đơn vị hành chính 2 cấp. Sắp xếp các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ trực thuộc Mặt trận Tổ quốc các cấp.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng các cấp ủy trực thuộc Trung ương, các ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị tại Trung ương xây dựng kế hoạch, lộ trình sắp xếp, tinh gọn các đơn vị sự nghiệp công lập, trường học, cơ sở y tế, doanh nghiệp nhà nước và sắp xếp tổ chức bên trong các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị.
“Việc thực hiện tinh giản biên chế gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ có sự chuyển biến rõ nét, đạt mục tiêu đề ra, góp phần tiết kiệm chi ngân sách nhà nước.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cán bộ không đủ tuổi tái cử được ban hành và thực hiện kịp thời, tạo thuận lợi trong quá trình sắp xếp, từng bước cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống chính trị”, dự thảo báo cáo chính trị thông tin.
Quốc phòng, an ninh tiếp tục được tăng cường vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận. Nước ta đã tập trung đầu tư, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.
Đến nay cơ bản hoàn thành điều chỉnh, sắp xếp tổ chức quân đội, công an tinh, gọn, mạnh. Công nghiệp quốc phòng, an ninh được đầu tư phát triển, có đột phá, bảo đảm tính lưỡng dụng, hiện đại. Xử lý dứt điểm nhiều vấn đề, đối tượng trọng điểm phức tạp về an ninh kéo dài nhiều năm.
"Phải có tư duy phát triển mới, linh hoạt hơn, nhạy bén hơn"
Trao đổi với phóng viên Dân trí, GS.TS Trần Ngọc Đường, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nói rằng có 4 tư duy đổi mới gây ấn tượng nhất với ông.
Thứ nhất, xem thành phần kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Thứ hai, phát triển kinh tế dựa trên phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Thứ ba, hội nhập quốc tế chủ động. Thứ tư, coi hoàn thiện thể chế là một điểm then chốt, khâu đột phá.
“Tiếp tục đổi mới tư duy phát triển là một đòi hỏi khách quan. Đây không phải một sự lựa chọn mang tính chủ quan mà là một yêu cầu cấp thiết, xuất phát từ các yếu tố khách quan ở trong nước và thế giới hiện nay”, ông Đường nhấn mạnh.
GS.TS Trần Ngọc Đường (Ảnh: Phùng Minh).
Theo ông, bối cảnh quốc tế đang biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ đã làm thay đổi mô hình sản xuất, quản lý và đời sống xã hội. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xu hướng bảo hộ mậu dịch, biến đổi khí hậu, khủng hoảng năng lượng và an ninh phi truyền thống... đặt ra thách thức lớn với các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam.
“Với các đặc trưng quốc tế đó, đòi hỏi nước ta phải có tư duy phát triển mới, linh hoạt hơn, nhạy bén hơn, quyết liệt hơn, phù hợp với xu thế toàn cầu. Tôi thực sự tâm đắc với những nội dung cơ bản về vấn đề tiếp tục đổi mới tư duy phát triển được thể hiện trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng”, ông Đường chia sẻ.
Hơn nữa, theo ông Đường, cần xác định rõ hơn tư duy phát triển trong kỷ nguyên mới là tư duy kiến tạo, chủ động, thích ứng và sáng tạo, thay thế cho tư duy hành chính, mệnh lệnh quyền uy - phụ thuộc và bị động.
Dự thảo báo cáo chính trị cũng cần nhấn mạnh đổi mới tư duy là yêu cầu xuyên suốt và liên tục, không phải nhiệm vụ nhất thời, đặc biệt trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Với Tiến sĩ Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam (Bộ NN&MT), các nghị quyết chiến lược được ban hành thời gian qua như là chìa khóa mở ra tương lai thịnh vượng.
Trong đó, 4 nghị quyết “trụ cột” gồm Nghị quyết số 57/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết 68/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Vừa qua, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết 70/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết 71/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết 72/2025 về giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Tiến sĩ Tô Văn Trường (Ảnh: VNN).
Ông Trường đánh giá chưa bao giờ khuôn khổ chiến lược phát triển quốc gia lại được định hình rõ ràng, đồng bộ đến thế. Hệ thống nghị quyết của Đảng được xem như “ngọn hải đăng” định hướng cho cả bộ máy vận hành.
Dù vậy, khi soi chiếu vào thực tế, điều ông Trường lo lắng là nhiều nghị quyết vẫn gặp tình cảnh “nóng trên, lạnh dưới”, tầm nhìn rõ, nhưng bước đi cụ thể lại rối rắm, khó khăn. Ở cấp cơ sở, công chức vẫn loay hoay giữa "rừng" luật, nghị định, thông tư - trong đó không ít quy định chồng chéo, mâu thuẫn.
Ở các nước phát triển, nghị quyết hay chính sách chỉ là khởi đầu của quản trị hiệu quả. Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc không chỉ ra chính sách đúng mà còn có cơ chế giám sát và sửa sai nhanh. Tại Singapore, khi Chính phủ ban hành chính sách cải tổ một khu nhà, họ lập tức kích hoạt hệ thống phản hồi công dân, cập nhật dữ liệu từng tuần, đo mức độ hài lòng và hiệu quả chi phí. Còn ở Việt Nam, sau khi nghị quyết được thông qua, thường phải chờ một loạt quy định “con” - nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn thi hành.
Muốn đưa các nghị quyết trên đi vào đời sống, Tiến sĩ Tô Văn Trường nhận định cần ba chuyển đổi lớn. Thứ nhất, chuyển từ tư duy ban hành sang tư duy thực thi - đo lường, kiểm chứng, phản hồi chính sách theo dữ liệu và kết quả thực tế.
Thứ hai, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị quốc gia hiện đại - giảm tầng nấc trung gian, giao quyền kèm trách nhiệm, ứng dụng công nghệ số trong giám sát.
Thứ ba, chuyển từ “Chính phủ điều hành” sang “Chính phủ kiến tạo và phục vụ” - thay đổi văn hóa công vụ, lấy hiệu quả và hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo.
“Những nghị quyết trụ cột của Việt Nam là tầm nhìn rất tiến bộ nhưng sẽ chỉ trở thành hiện thực khi bộ máy hành chính tự cải cách để tương thích với tinh thần đó”, vị chuyên gia nêu quan điểm.
Tiến sĩ Trường kỳ vọng Đại hội XIV sắp tới phải trở thành cột mốc lịch sử, đặt nền tảng vững chắc cho một “thập niên tăng trưởng thông minh” - nơi trí tuệ (với đổi mới sáng tạo và khoa học cơ bản làm cốt lõi), công nghệ (hướng tới kinh tế số và kinh tế xanh bền vững), cùng đạo lý (thượng tôn pháp luật, liêm chính công vụ và niềm tin xã hội sâu sắc) hòa quyện thành ba trụ cột bất khả phân ly, dẫn dắt Việt Nam vươn tới đỉnh cao phát triển.
Nguồn: https://dantri.com.vn/thoi-su/tu-duy-moi-dong-luc-mo-duong-cho-thap-nien-tang-truong-thong-minh-tai-viet-nam-20251102174448184.htm






Bình luận (0)