Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Ảnh tư liệu |
Nhà báo Sương Nguyệt Anh (1864 - 1921): Nữ chủ bút đầu tiên ở Nam kỳ
Vào đầu thế kỷ XX, giữa bối cảnh xã hội Việt Nam vẫn còn bị trói buộc bởi lễ giáo phong kiến và tư tưởng trọng nam khinh nữ, sự xuất hiện của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh như một làn gió mới thổi vào phong trào phụ nữ và nền báo chí quốc ngữ non trẻ. Là con gái của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, bà khẳng định vị thế của nữ giới qua trang viết, với vai trò là nữ chủ bút đầu tiên của đất Nam Kỳ.
Sinh ra trong một gia đình nho học tại thôn An Bình Đông (nay là xã An Đức), huyện Ba Tri, Sương Nguyệt Anh có tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Khuê. Từ nhỏ, bà được thừa hưởng nền nếp học hành và tinh thần yêu nước từ thân phụ. Sau nhiều biến cố cuộc đời, bà chọn cuộc sống thủ tiết, tự thân nuôi dạy con cái và tiếp nối sự nghiệp giáo dục, hành nghề y cứu người. Chính những năm tháng dấn thân trong đời sống xã hội đã hun đúc nơi bà tấm lòng trăn trở với vận mệnh dân tộc và khát vọng khai mở tri thức cho phụ nữ.
Đỉnh cao trong sự nghiệp hoạt động xã hội và báo chí của Sương Nguyệt Anh chính là việc bà đứng ra làm chủ bút tờ “Nữ giới chung” - tờ báo đầu tiên dành cho phụ nữ ở Nam Kỳ, phát hành hàng tuần từ ngày 1-2-1918. Trong một xã hội mà việc phụ nữ ra mặt viết báo vẫn bị coi là điều “vượt lễ khuôn phép”. Hành động của bà chẳng khác nào “đem chuông đánh Sài Gòn” để khơi dậy tiếng nói mới cho giới nữ. Dưới sự điều hành của bà, tờ báo không đơn thuần là một diễn đàn văn nghệ, mà còn là nơi cổ vũ tinh thần tự học, dạy nghề, bàn luận gia chánh và đặc biệt là phê phán những bất công xã hội áp đặt lên nữ giới.
Qua từng số báo, bà không chỉ khẳng định vị thế của phụ nữ trong đời sống tinh thần và xã hội, mà còn truyền cảm hứng đấu tranh cho bình quyền, khích lệ phái nữ rời khỏi chốn phòng khuê, mạnh dạn tham gia vào các công việc xã hội, noi theo gương Bà Trưng, Bà Triệu.
Sương Nguyệt Anh không chỉ là một nhà báo, mà còn là người khai sáng tinh thần nữ quyền bằng chính hành động và tư tưởng. Mỗi bài viết, mỗi chuyên mục dưới ngòi bút của bà đều thấm đẫm tinh thần tiến bộ, tôn trọng giá trị người phụ nữ và cổ vũ họ làm chủ cuộc đời mình. Dù “Nữ giới chung” chỉ tồn tại hơn 5 tháng nhưng sự lan tỏa của nó đã vượt xa khuôn khổ một tờ báo, trở thành biểu tượng cho phong trào đấu tranh của nữ lưu Việt Nam thuở đầu giao thời.
Sức mạnh của ngòi bút nơi bà không nằm ở sự hào nhoáng ngôn từ, mà ở sự chân thành, đoan chính và chí khí. Những bài thơ, bài xã luận trên báo thể hiện rõ một tâm hồn sâu sắc, dũng cảm, cùng tầm nhìn vượt thời đại. Chính điều đó khiến các học giả đương thời và hậu thế dành cho bà sự ngưỡng mộ đặc biệt không chỉ như một nữ sĩ tài hoa, mà còn là một chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa, tư tưởng.
Hơn một thế kỷ sau khi qua đời, tên tuổi Sương Nguyệt Anh vẫn được nhắc đến như một hình mẫu về trí tuệ, phẩm hạnh và tinh thần dấn thân. Nhiều con đường, trường học, giải thưởng báo chí và văn hóa mang tên bà như lời tri ân dành cho người phụ nữ đã đặt nền móng cho tiếng nói của nữ giới trên báo chí quốc ngữ. Với vai trò chủ bút “Nữ giới chung”, Sương Nguyệt Anh không chỉ mở đường cho các thế hệ nữ nhà báo sau này, mà còn khẳng định rằng: phụ nữ Việt Nam có thể góp tiếng nói của mình vào sự tiến bộ chung của xã hội.
Nhà báo Trung Nguyệt (1909 - 1976): Cây bút chính luận giàu tính chiến đấu đầu thế kỷ XX
Nhà báo Bảo Lương - Nguyễn Trung Nguyệt. Ảnh tư liệu |
Sinh năm 1909 tại làng Mỹ Thạnh, quận Ba Tri (nay thuộc tỉnh Bến Tre), Nguyễn Trung Nguyệt từ nhỏ đã bộc lộ tư chất thông minh và tình yêu đặc biệt dành cho chữ nghĩa. Dù là con gái trong xã hội trọng nam khinh nữ, bà vẫn được học chữ Nho và Quốc ngữ, sớm nổi tiếng với tài làm thơ và khả năng văn chương sắc sảo. Ở tuổi 16, bút danh Trung Nguyệt đã xuất hiện đều đặn trên mặt báo Thần Chung tại Sài Gòn, nhận được lời khen ngợi từ chủ nhiệm Nguyễn Văn Bá - một trong những cây bút có uy tín thời bấy giờ.
Nhưng Nguyễn Trung Nguyệt không chọn dừng lại ở vị trí một nữ văn sĩ tài hoa. Chứng kiến sự tàn bạo của thực dân Pháp và nỗi thống khổ của nhân dân, bà sớm nuôi chí cứu nước. Từ chối các cuộc hôn nhân môn đăng hộ đối với con nhà giàu thân Pháp, Trung Nguyệt khẳng khái tuyên bố: “Quốc thù chưa trả ta chưa chết/ Gươm ấy là con, súng ấy chồng”. Câu thơ thể hiện ý chí sắt đá, vượt khỏi mọi ràng buộc truyền thống, để chọn ngã rẽ lớn lao của đời mình.
Năm 1926, Trung Nguyệt gia nhập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Cùng năm đó, bà được tổ chức cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự lớp huấn luyện chính trị do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Vì là phụ nữ duy nhất trong nhóm 6 người bí mật vượt biên, bà đã hy sinh mái tóc dài, cải trang thành nam để có thể đến nơi an toàn. Sau khóa học, Trung Nguyệt được phân công phụ trách mục Nữ giới trên báo Thanh Niên - cơ quan ngôn luận của Tổng bộ cách mạng.
Không chỉ viết báo và làm thơ, Nguyễn Trung Nguyệt còn là người đặt nền móng cho phong trào phụ nữ cách mạng ở Nam Kỳ. Cuối năm 1927, bà trở về nước hoạt động bí mật, vận động thành lập tổ chức Hội Phụ nữ. Chỉ 1 năm sau, trong vụ án ở đường Barbier, bà bị thực dân Pháp bắt và kết án 8 năm tù giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Dù bị giam cầm, bà vẫn không ngừng sáng tác, tiếp tục dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu.
Năm 1937, Nguyễn Trung Nguyệt được trả tự do. Dù không thể tiếp tục trực tiếp hoạt động cách mạng do điều kiện sức khỏe và tình hình xã hội, nhưng bà không bao giờ từ bỏ lý tưởng. Với bút danh Bảo Lương, bà để lại một gia tài đồ sộ gồm hàng ngàn bài thơ và nhiều tác phẩm chính luận giàu tính chiến đấu, nhân văn, trải dài suốt những năm tháng trước, trong và sau tù đày.
Nhà báo Bảo Lương - Nguyễn Trung Nguyệt qua đời năm 1976. Cuộc đời bà là một bản anh hùng ca dũng cảm, nơi tinh thần yêu nước hòa quyện cùng tài năng nghệ thuật, tạo nên hình ảnh người nữ chiến sĩ - nhà báo - nhà thơ trọn vẹn. Không chỉ là người viết báo, bà là tiếng nói tiên phong của phụ nữ Việt Nam bước ra khỏi bóng tối, góp phần mở đường cho thế hệ nữ trí thức cách mạng sau này tiếp nối con đường đấu tranh vì dân tộc và công lý.
Nhà báo Trần Văn Kiết (1911 - 1943): Trọn đời hiến dâng cho cách mạng và báo chí
Nhà báo Trần Văn Kiết. Ảnh tư liệu |
Ông Trần Văn Kiết là người con ưu tú của làng Phú Phụng, huyện Chợ Lách. Ông là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, của người chiến sĩ cộng sản và nhà báo cách mạng trọn nghĩa, vẹn lòng.
Sinh năm 1911, trong một gia đình phú nông, Trần Văn Kiết đã sớm được hun đúc lý tưởng cách mạng. Ông bước chân vào con đường đấu tranh từ những năm 1925 - 1926, khi phong trào yêu nước dâng cao khắp Nam Kỳ. Mang khát vọng giải phóng dân tộc, tại Pháp, ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và tiếp tục sang Liên Xô học tập, rèn luyện lý luận, chuẩn bị cho con đường phụng sự lâu dài cho cách mạng Việt Nam.
Trở về nước theo sự chỉ đạo của Trung ương, Trần Văn Kiết đã trở thành một trong những nhà báo tiên phong, người góp phần khơi dậy tinh thần yêu nước qua từng trang viết. Trong vai trò lãnh đạo và biên tập tờ Dân Chúng, ông không chỉ viết báo mà còn tổ chức, điều hành và đấu tranh trực diện với thực dân Pháp ngay trên mặt trận ngôn luận. Đó là giai đoạn mà mỗi tờ báo in ra là một quả bom nổ vào thành lũy của kẻ thù, mỗi bài viết là một nhát bút cắt vào hệ thống áp bức. Dù đối mặt với nguy hiểm rình rập, ông vẫn kiên cường dấn bước, để rồi khi bị bắt, không một lời khai được tiết lộ dù chịu tra tấn tàn bạo.
Trong nhà tù Khám Lớn và sau đó là căng Tà Lài, ông vẫn tiếp tục gieo mầm lý tưởng. Từ người bạn tù đến cán bộ trẻ, ai từng tiếp xúc với Trần Văn Kiết đều được ông truyền lửa bằng trí tuệ và lòng tận tụy. Khi vượt ngục trở về, ông lại tiếp tục công tác báo chí với tờ Giải phóng, cho đến ngày anh dũng ngã xuống dưới đòn thù của mật thám Pháp tại bót Catinat năm 1943, khi mới tròn 32 tuổi.
Cuộc đời của Trần Văn Kiết là một bản hùng ca thầm lặng, đầy khí phách. Ông đã từ bỏ sự nghiệp xán lạn, cuộc sống giàu sang và cả một mái ấm riêng tư để chọn con đường chông gai nhất - dấn thân vì cách mạng vì dân tộc. Như lời nhà nghiên cứu Vũ Hoài An từng nhận định, sự ra đời và phát triển của tờ Dân Chúng mang dấu ấn sâu đậm của ông Trần Văn Kiết, một trí thức yêu nước, một người cộng sản chân chính.
Ngày nay, tên của ông được đặt cho một ngôi trường THPT và một con đường tại trung tâm huyện Chợ Lách như một lời nhắc nhớ thiêng liêng về giá trị của lòng yêu nước và sự hy sinh cao cả. Bức tượng của ông trong khuôn viên Trường THPT Trần Văn Kiết không chỉ là biểu tượng của lịch sử, mà còn là ngọn đuốc soi đường cho bao thế hệ học trò, với lời nhắn gửi đến thế hệ hôm nay rằng: Hãy sống xứng đáng với những người đã ngã xuống bằng tri thức, lòng trung thành, tinh thần không ngừng học tập và cống hiến vì sự phát triển của quê hương.
Nhà báo liệt sĩ Dương Tử Giang (1914 - 1956): Gương sáng về tinh thần lạc quan cách mạng
Nhà báo Dương Tử Giang. Ảnh tư liệu |
Dương Tử Giang tên thật là Nguyễn Tấn Sĩ, sinh năm 1914 (có tài liệu ghi năm 1918), tại xã Nhơn Thạnh, TP. Bến Tre ngày nay. Ông mất ngày 2-12-1956. Ông đậu Thành Chung (chương trình Pháp - Việt). Đồng thời, ông nhận cả hai bằng theo chương trình Pháp là Brevet Élémentaire và BEPC.
Dương Tử Giang là một con người giàu nhiệt huyết, một chiến sĩ cách mạng trung kiên, và cũng là một nghệ sĩ đa tài. Ông viết truyện, tiểu thuyết, làm thơ, dịch tác phẩm nước ngoài, viết và dàn dựng các vở tuồng. Hoạt động báo chí của Dương Tử Giang có thể chia thành ba thời kỳ.
Thời kỳ thứ nhất, từ khoảng năm 1936, khi ông bắt đầu rời Mỹ Tho lên Sài Gòn đến giữa năm 1950, trước khi ông thoát ly ra chiến khu kháng chiến ở miền Tây Nam Bộ. Trong thời gian đầu của thời kỳ này, ông cộng tác và viết cho một số từ báo ở Sài Gòn như: Mai, Dư luận, Sống, Thanh niên, Justice-Công lý... Sau Nam Bộ kháng chiến bùng nổ, hoạt động báo chí của Dương Tử Giang càng sôi nổi, nhiệt huyết hơn. Năm 1946, ông lập ra tờ Văn hóa và trực tiếp làm chủ nhiệm báo.
Đầu năm 1947, sau khi Dương Tử Giang viết và cho đăng trên tờ Văn hóa một bài báo tố cáo đội quân viễn chinh Pháp áp bức, cướp bóc và giết hại người dân Việt Nam, báo bị đình bản và ông bị bắt giam ở Khám Lớn, Sài Gòn. Trong nhà tù, ông tiếp tục cộng tác viết bài cho các tờ báo bí mật: Tiếng tù và Đêm Khám Lớn.
Ra khỏi nhà tù sau hơn 9 tháng bị giam giữ khủng bố, Dương Tử Giang lại lao vào mặt trận báo chí. Ông tham gia Ban biên tập báo Nay... Mai, viết bài cho tờ Tiếng chuông, Chủ bút tờ tuần báo Em, cộng tác với tờ Thần chung, Giám đốc kiêm Chủ bút tờ Việt báo... Sau mỗi tờ báo bị đóng cửa, ông lại ngay lập tức tạo dựng hoặc trực tiếp làm việc với một tờ báo mới như một thứ vũ khí đấu tranh.
Thời kỳ thứ hai, từ cuối năm 1950 đến khi Hiệp định Genève về Việt Nam được ký kết năm 1954, Dương Tử Giang hoạt động ở khu căn cứ kháng chiến. Thời gian đầu, ông làm việc ở báo Cứu Quốc. Về sau, ông được giao tổ chức đoàn tuồng để lưu diễn phục vụ cán bộ, nhân dân, nâng cao đời sống văn hóa của chiến khu kháng chiến.
Thời kỳ thứ ba, từ cuối năm 1954 đến khi ông bị địch bắt và hy sinh. Đây là thời kỳ rất khó khăn, nguy hiểm khi chính quyền Ngô Đình Diệm ra tay khủng bố những người cách mạng và chống đối. Dưới sự chỉ đạo của tổ chức Đảng, Dương Tử Giang tiếp tục viết báo, thay đổi các bút danh khác nhau để đăng tải trên những tờ báo tiến bộ. Ông thành lập Báo Bình Dân để trực tiếp tuyên truyền theo đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản. Sau khi Báo Bình Dân bị đóng cửa, ông lần lượt làm chủ bút các báo Điện Báo, Thứ Năm, Duy Tân.
Tháng 10-1955, khi đang sửa morasse cho tờ Duy Tân, ông bị địch bắt đưa về bót Catinat, sau đó đưa lên Trung tâm cải huấn Biên Hòa (nhà lao Tân Hiệp). Tại đây, ông đã liên hệ với tổ chức Đảng Cộng sản trong nhà tù để tổ chức phong trào đấu tranh của các tù nhân tự bảo vệ và chống lại sự đàn áp của kẻ thù. Cuối năm 1956, Dương Tử Giang cùng chi bộ đảng trong nhà tù tổ chức cuộc vượt ngục tập thể nhưng có 20 người vượt ngục không thành công và hy sinh, trong đó có nhà báo Dương Tử Giang.
Hiện nay, tên nhà báo liệt sĩ Dương Tử Giang được đặt cho một con đường ở Quận 5, TP. Hồ Chí Minh. Hàng năm, Giải thưởng báo chí mang tên Dương Tử Giang được tổ chức ở tỉnh Đồng Nai.
Hiểu biết về truyền thống tốt đẹp của các thế hệ người làm báo qua các giai đoạn lịch sử cách mạng, sẽ giúp hun đúc tinh thần, truyền thống yêu nước, cho thế hệ trẻ hôm nay nói chung và người làm báo nói riêng, để tiếp tục cùng xây đắp, góp phần vào phát triển quê hương, đất nước trong tương lai.
C. Trúc - H. lia - T. Thảo
Nguồn: https://baodongkhoi.vn/vang-danh-nguoi-lam-bao-xu-dua-17062025-a148284.html
Bình luận (0)