Những ngày này, nhiều người nội trợ chỉ cần bước chân ra chợ là cảm nhận ngay dư chấn thiên tai qua… rổ rau. Rau muống, cải, mồng tơi, xà lách, cà chua, dưa chuột liên tục tăng giá, có loại chỉ trong vài hôm đã nhảy gấp rưỡi, gấp đôi. Không ít người thở dài gọi đó là cảnh “rau tăng bằng lần” sau bão lũ.
Trên đồng ruộng, bức tranh còn chua xót hơn. Nhiều vùng rau màu, hoa, cây ăn quả từ miền Bắc đến miền Trung bị ngập úng, dập nát, mất trắng sau các đợt mưa bão dồn dập trong nhiều tháng qua.
Điều đáng nói là hiện tượng rau tăng giá đột biến không còn là câu chuyện mới. Việt Nam đã quen với bão lũ. Vậy tại sao cứ sau mỗi trận mưa lớn, thị trường nông sản lại dễ dàng rơi vào cảnh “tăng bằng lần”?
Vì sao một đất nước quen với thiên tai lại vẫn bị động trước những cú sốc nguồn cung lặp đi lặp lại? Và liệu cấu trúc sản xuất - phân phối hiện nay có đang bộc lộ quá nhiều mắt xích mong manh?
Để lý giải câu chuyện này và bàn sâu về các giải pháp căn cơ cho ngành rau, quả, hoa trong bối cảnh khí hậu cực đoan ngày càng là vấn đề nóng, phóng viên báo Dân trí có cuộc trao đổi với PGS.TS Đặng Văn Đông, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả.
Bản đồ vùng trồng bộc lộ điểm yếu
Việt Nam là quốc gia thường xuyên chịu ảnh hưởng bão lũ. Theo ông, cấu trúc phân bố vùng trồng hiện nay đang có những đặc điểm gì đáng chú ý?
Ở quy mô quốc gia, cơ cấu trồng trọt nhất là nhóm rau, quả và hoa đang có sự dịch chuyển mạnh theo hướng tập trung hóa vùng sản xuất, thích ứng theo tiểu vùng khí hậu và nhu cầu thị trường. Việt Nam hiện hình thành tương đối rõ ba vùng sản xuất lớn theo Bắc – Trung – Nam, mỗi vùng mang đặc điểm sinh thái và cơ cấu cây trồng khác nhau.
![]()
PGS TS Đặng Văn Đông, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả (Ảnh: Minh Nhật).
Nếu nhìn dưới góc độ quản trị rủi ro thiên tai, có thể thấy cấu trúc vùng trồng hiện nay của Việt Nam vừa có những bước tiến, vừa còn những điểm khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Điểm thứ nhất, sản xuất vẫn tập trung khá nhiều vào một số vùng trọng điểm, đặc biệt với rau và hoa nhưng rủi ro thiên tai chưa được kiểm soát tốt. Một số loại cây trồng quan trọng, đặc biệt là rau và hoa, vẫn tập trung vào những khu vực rất nhạy cảm với thời tiết:
Ở miền Bắc, rau vụ đông ở đồng bằng sông Hồng; hoa ở Mê Linh, Tây Tựu, Đan Phượng, Văn Giang (cũ), các vùng này hứng trực tiếp bão, mưa kéo dài.
Khu vực miền Trung, đặc biệt là Bắc Trung bộ, cây ăn quả chịu ảnh hưởng nặng bởi mưa lũ dồn dập.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, vựa trái cây tập trung ven sông lớn, dễ bị ảnh hưởng triều cường, xâm nhập mặn.
Việc phụ thuộc quá lớn vào một số “vùng lõi”, trong khi các vùng khác chưa phát huy hết vai trò vệ tinh, khiến rủi ro thiên tai dễ tạo ra đứt gãy cục bộ nguồn cung.
Điểm thứ hai, ở chiều ngược lại, xu hướng phân tán rủi ro cũng đang hình thành rõ hơn so với cách đây khoảng 10-15 năm.

Dọc các tuyến đường ven sông Dinh Phan Rang, hình ảnh người dân ra đồng, cày xới lại đất để trồng lại các giàn nho đã chết không còn xa lạ sau trận lũ lịch sử (Ảnh: Bảo Quyên).
Rau ôn đới không chỉ có ở Đà Lạt mà đã có thêm Mộc Châu, Sa Pa, Lạng Sơn. Rau vụ đông không chỉ quanh Hà Nội mà đã mở rộng sang Hải Phòng, Hưng Yên, Ninh Bình.
Hoa chất lượng cao ngoài Lâm Đồng và Hà Nội đã có Sa Đéc, Củ Chi, một số vùng ở Khánh Hòa, Nghệ An, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hưng Yên.
Cây ăn quả ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên đang đóng vai trò bổ trợ rõ rệt cho Đồng bằng sông Cửu Long. Nếu nhìn theo mạng lưới, chúng ta đang dần hình thành hệ thống vùng trồng bổ trợ lẫn nhau, giúp giảm áp lực khi một vùng trọng điểm gặp rủi ro.
Điểm thứ ba, và cũng là điểm yếu lớn, là cấu trúc vùng trồng hiện nay vẫn thiếu tính chống chịu chủ động.
Nhiều vùng sản xuất không được thiết kế từ đầu với tư duy “coi thiên tai là điều chắc chắn xảy ra”, nên thiếu hạ tầng để bảo vệ sản xuất như đê bao nhỏ, hệ thống tiêu thoát nước nội đồng, thiếu hồ điều hòa.
Một vấn đề Việt Nam thiếu kho lạnh và trung tâm logistics để “câu giờ” khi vùng trồng bị thiên tai. Sản xuất ngoài đồng, phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết, vẫn chiếm tỷ lệ rất cao, đặc biệt với rau ăn lá và hoa.
Nói cách khác, chúng ta đã có những bước đi nhất định theo hướng phân tán rủi ro không gian, nhưng chưa xây dựng được một cấu trúc vùng trồng có sức chống chịu cao trước thiên tai.
4 mắt xích mong manh trước thiên tai

Một người bán rau ở khu vực chợ dân sinh tại TPHCM (Ảnh: Quỳnh Tâm).
Thực tế cho thấy cứ sau một đợt mưa bão lớn là giá rau quả lại tăng gấp nhiều lần. Theo ông, nguyên nhân chính nằm ở đâu?
Thực tế giá rau quả “tăng sốc” sau mỗi đợt mưa bão không xuất phát từ một nguyên nhân đơn lẻ, mà là kết quả của sự kết hợp nhiều yếu tố cùng lúc trong toàn chuỗi cung ứng. Có thể tóm gọn thành ba nhóm nguyên nhân lớn:
Trước hết, khâu sản xuất chịu thiệt hại trực tiếp và tạo ra đứt gãy nguồn cung ngắn hạn. Rau, đặc biệt là rau ăn lá, rất nhạy cảm với ngập úng. Chỉ cần mưa lớn kéo dài trong vài ngày, toàn bộ diện tích ngoài đồng rất dễ bị dập nát, thối nhũn, mất khả năng thu hoạch.


Theo dây chuyền, vụ gieo trồng tiếp theo cũng bị chậm trễ, kéo theo khoảng trống nguồn cung 10-20 ngày. Vì rau, đặc biệt là rau ăn lá, không thể dự trữ dài ngày, nên chỉ cần 3-5 ngày mưa bão là thị trường lập tức thiếu hàng. Đây là nguyên nhân gốc.
Thứ hai, hệ thống giao thông và lưu thông hàng hóa thường bị gián đoạn ngay trong và sau thiên tai. Tình trạng này kéo theo các tác động xảy ra đồng thời:
- Hàng từ vùng sản xuất không vận chuyển được ra chợ đầu mối.
- Các vựa lớn và siêu thị thiếu hàng ngay, tạo hiệu ứng “săn hàng” từ thương lái.
- Chi phí vận chuyển tăng mạnh do phải đi đường vòng, tăng rủi ro hư hỏng.
- Ở nhiều trường hợp thực tế không thiếu sản phẩm trên đồng, nhưng lại “thiếu” ở chợ vì không đưa được ra thị trường.
Thứ ba, hệ thống phân phối hiện nay còn phụ thuộc rất nhiều vào chợ đầu mối truyền thống và thương lái, trong khi yếu tố dự trữ, điều tiết bằng kho lạnh, trung tâm logistics vùng chưa phát triển.

Đèo Prenn bị sạt lở gây ảnh hưởng quá trình vận chuyển rau củ từ Đà Lạt về TPHCM (Ảnh: Minh Hậu).
Phần lớn rau quả vẫn đi theo dòng chảy thẳng từ ruộng đến chợ, không có tầng đệm trung gian. Các hợp tác xã, doanh nghiệp chế biến, siêu thị có kho lạnh nhưng quy mô chưa đủ lớn để trở thành một “bể chứa” giúp thị trường vượt qua 3 đến 5 ngày biến động sau thiên tai.
Do vậy, khi đầu mối bị đứt gãy, thị trường bán lẻ phản ứng rất mạnh, tạo hiện tượng “tăng dây chuyền”. Ở một số thời điểm, tâm lý người bán cũng góp phần gây biến động giá, vì thiếu cơ chế kiểm soát minh bạch nguồn cung.
Tổng kết lại ba nhóm yếu tố kết hợp với nhau tạo thành một hiệu ứng cộng hưởng: mất sản lượng tại ruộng, đứt mạch vận chuyển, thiếu đệm dự trữ và phân phối. Vì vậy, giá có thể tăng rất nhanh trong một khoảng thời gian ngắn. Khi nguồn cung và giao thông được khôi phục, giá sẽ dần hạ, nhưng những ngày đầu sau lũ thường là giai đoạn “sốc giá” nhất.
Nhìn vào chuỗi cung ứng, ông đánh giá tính chống chịu của hệ thống trồng trọt và cung ứng rau quả hiện nay ra sao. Những mắt xích nào thường dễ bị tổn thương nhất khi có thiên tai?
- Nếu xem chuỗi cung ứng rau quả như một đường dây liên hoàn từ vùng trồng đến bàn ăn, thì hiện nay chúng ta có ít nhất 4 mắt xích dễ bị tổn thương nhất trước thiên tai. Khi một mắt xích gặp vấn đề, hiệu ứng lan nhanh sang cả hệ thống, và điều này thể hiện rất rõ ở các đợt mưa lũ vừa qua.

Giá nguyên vật liệu nông nghiệp tăng cao khiến việc canh tác, khôi phục của người dân gặp nhiều khó khăn (Ảnh: Ngô Linh).
Mắt xích thứ nhất chính là vùng trồng, tức điểm xuất phát của chuỗi nhưng cũng là nơi yếu nhất.
Rau và hoa ở Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất ngoài trời. Nhà kính, nhà màng có tăng lên, nhưng tập trung ở một số vùng nhất định và chưa chiếm tỷ lệ đủ lớn để bảo vệ sản xuất khi thời tiết cực đoan.
Khi có mưa lớn hoặc bão, rau ăn lá bị hư hại gần như hoàn toàn, đất bị úng kéo dài, ảnh hưởng đến cả vụ kế tiếp. Cây ăn quả thì rụng trái, gãy cành, thậm chí gãy đổ cả cây. Ở những vùng không có hệ thống tiêu thoát nước chủ động, mức độ thiệt hại có thể lên tới 50, 60, thậm chí 70% diện tích.
Mắt xích thứ hai là khâu thu hoạch. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng thực tế đây là giai đoạn dễ làm tăng tổn thất.
Ngay cả những diện tích còn có thể thu hoạch được sau mưa lũ cũng gặp khó. Sản phẩm thường ướt, dập, dính bùn đất, rất dễ thối hỏng nếu không được xử lý nhanh.
Trong khi đó, mưa dài ngày, đường sá chia cắt khiến nông dân khó huy động đủ nhân lực để thu hoạch kịp thời. Việc sơ chế, làm khô bề mặt sản phẩm sau mưa cũng bị hạn chế vì thiếu nhà xưởng và thiết bị. Kết quả là lượng hàng “cứu được” sau thiên tai thường ít hơn so với diện tích thoạt nhìn còn xanh trên đồng.
Mắt xích thứ ba là bảo quản sau thu hoạch, vốn là điểm yếu cố hữu của nông nghiệp Việt Nam.
Phần lớn rau quả của chúng ta tiêu thụ tươi, trong khi hệ thống kho lạnh vùng, trung tâm bảo quản và sơ chế tập trung còn rất thiếu và yếu. Khi không có nơi dự trữ lạnh đủ lớn, thị trường không có “đệm cung ứng” để duy trì nguồn hàng trong vài ngày thiếu hụt.
Tổn thất sau thu hoạch vì thế rất cao, với rau có thể lên tới 20-30%, với quả 15-25% tùy loại. Ở những nước có hệ thống kho lạnh và logistics tốt, người ta có thể dùng hàng trong kho để bù đắp tạm thời cho vùng bị thiên tai. Chúng ta hiện chưa làm được điều đó ở quy mô vùng.
Mắt xích thứ tư là vận chuyển và phân phối. Mưa bão và lũ lụt khiến nhiều tuyến đường bị ngập, sạt lở, cầu cống phải cấm xe, đồng nghĩa với việc xe tải không thể vào vùng trồng hay ra khỏi vùng trồng.
Một khi hàng không về được chợ đầu mối, siêu thị, toàn bộ thị trường bán lẻ lập tức rơi vào tình trạng “khát hàng”. Bên cạnh đó, chuỗi phân phối của chúng ta vẫn chủ yếu dựa trên chợ đầu mối truyền thống, thiếu những trung tâm phân phối hiện đại có sức dự trữ lớn. Khi đầu mối bị tắc, toàn bộ các cửa hàng, chợ nhỏ ở phía sau cũng lập tức thiếu hàng theo.
Nếu ghép lại, có thể hình dung chuỗi cung ứng rau quả Việt Nam như một đường thẳng khá mỏng, kéo dài từ ruộng đến chợ, với thời gian lưu thông rất ngắn, không có nhiều tầng dự trữ trung gian, và phụ thuộc nhiều vào thời tiết từng ngày.
Chỉ cần một trong bốn mắt xích nói trên gặp sự cố, toàn bộ chuỗi rất dễ bị gián đoạn. Điều đó cho thấy tính chống chịu tổng thể của chuỗi cung ứng rau quả hiện nay còn thấp. Muốn giảm bớt cảnh giá rau “nhảy múa” sau mỗi đợt thiên tai, chúng ta buộc phải tăng cường sức bền tại 4 điểm yếu này: vùng trồng, thu hoạch, bảo quản và vận chuyển phân phối.
3 trụ cột tái cấu trúc nông nghiệp
Nhìn về dài hạn, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khó lường, ông hình dung chiến lược phát triển trồng trọt, đặc biệt là rau, quả, hoa của Việt Nam nên đi theo hướng nào để vừa ổn định nguồn cung, hạn chế những cú sốc giá sau thiên tai, vừa nâng cao giá trị gia tăng cho nông dân và ngành nông nghiệp?
- Nhìn về trung và dài hạn, tôi cho rằng chiến lược phát triển trồng trọt, đặc biệt là rau, quả và hoa của Việt Nam phải dựa trên ba trụ cột: tái cấu trúc hệ thống sản xuất theo khí hậu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và xây dựng chuỗi giá trị hiện đại có khả năng chống chịu cao.
Mục tiêu không chỉ là ổn định nguồn cung, hạn chế những cú sốc giá sau thiên tai mà còn nâng giá trị gia tăng cho nông dân và toàn ngành.

Mô hình nông nghiệp công nghệ cao (Ảnh: Hoàng Lam).
Thứ nhất là tái cấu trúc sản xuất theo hướng thích ứng thông minh với khí hậu. Trong bối cảnh thời tiết cực đoan, chúng ta không thể làm theo kiểu vụ nào hay vụ đó, mà phải quy hoạch lại cây trồng theo tiểu vùng khí hậu và mức độ rủi ro.
Rau ôn đới nên tập trung ở Đà Lạt, Mộc Châu, Sa Pa và một phần Tây Nguyên. Rau nhiệt đới và rau vụ đông phát huy lợi thế ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ.
Cây ăn quả cần được phân bố hợp lý giữa đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và trung du miền Bắc. Hoa, ngoài các vùng truyền thống như Đà Lạt và Hà Nội, có thể khai thác thêm Ninh Thuận, Nghệ An, Lạng Sơn.
Cùng với đó, mỗi vùng trọng điểm phải có vùng đệm và vùng thay thế, để khi một khu vực bị bão, ngập úng thì lập tức có nơi khác gánh nguồn cung. Lịch thời vụ cũng cần đa dạng hóa, tránh dồn quá nhiều diện tích và sản lượng vào một thời điểm duy nhất rồi cùng lúc bị thời tiết đánh gục.
Thứ hai là đẩy mạnh công nghệ hóa ngành trồng trọt. Tôi cho rằng khoa học - công nghệ chính là “lớp phòng thủ thế hệ mới” giúp ngành trồng trọt Việt Nam thích ứng hiệu quả hơn với thiên tai.
Kinh nghiệm từ các nước như Hà Lan, Israel, Nhật Bản cho thấy công nghệ là lá chắn bền vững trước biến đổi khí hậu.
Hệ thống nhà kính, nhà màng, mái che mưa có thể giúp giảm phần lớn thiệt hại do mưa bão với rau và hoa, đồng thời nâng chất lượng, sản lượng và khả năng cung ứng quanh năm.
Ở khâu sau thu hoạch, kho lạnh, trung tâm sơ chế, đóng gói và logistics vùng chính là bộ khung của một chuỗi rau quả hiện đại, và đây hiện vẫn là điểm yếu nhất của chúng ta.


Công nghệ số và trí tuệ nhân tạo có thể hỗ trợ dự báo nông vụ, thời tiết cực đoan, dịch hại, tự động hóa nhà kính, tưới và dinh dưỡng thông minh, quản lý truy xuất nguồn gốc, tối ưu vận tải và tồn kho. Đi kèm là chiến lược giống cây trồng chịu hạn, chịu ngập, chịu mặn, với hệ thống ngân hàng gen và chương trình chọn tạo giống dài hạn gắn với hợp tác quốc tế.
Thứ ba là xây dựng chuỗi giá trị hiện đại, chuyên nghiệp, có khả năng chống chịu cao. Muốn giảm sốc giá sau thiên tai, chuỗi phải được tổ chức lại theo hướng liên kết bền vững giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và hệ thống phân phối.

Hệ thống lưu trữ giống khoai tây (Ảnh: Minh Nhật).
Sản xuất phải có kế hoạch, tiêu thụ có hợp đồng, rủi ro có cơ chế chia sẻ, để khi gặp thiên tai chuỗi không bị đứt hẳn mà chỉ co giãn trong một khoảng chấp nhận được.
Các vùng nguyên liệu cần được tổ chức thành cụm, có hệ thống trạm bơm, mương tiêu, hồ điều hòa chống ngập, nhà kho, điểm sơ chế và thậm chí có đội phản ứng nhanh hỗ trợ thu hoạch trước bão.
Tỷ lệ sản phẩm chế biến và bán chế biến cũng nên tăng lên, với các dạng rau chế biến, rau cắt rửa sẵn, quả sấy, đông lạnh đóng vai trò như một lớp đệm cung ứng, giúp thị trường không rơi vào tình trạng sốc giá khi sản xuất tươi bị ảnh hưởng. Song song, thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa cần được phát triển hài hòa, để xuất khẩu nâng giá trị nhưng không làm đứt gãy nguồn cung trong nước.
Tầm nhìn chiến lược ở đây là chuyển dần từ một nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào thời tiết sang nông nghiệp dựa vào công nghệ, dữ liệu và hệ thống.
Từ sản xuất tự phát sang sản xuất có tính toán khí hậu. Từ phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết sang có các tầng công nghệ và hạ tầng bảo vệ. Từ bán tươi truyền thống sang kết hợp logistics, chế biến, lưu trữ thông minh. Từ sản xuất đơn lẻ sang liên kết chuỗi giá trị. Từ giá trị thấp sang giá trị gia tăng cao.
Chỉ khi đi theo hướng đó, ngành rau, quả, hoa của Việt Nam mới vừa ổn định được nguồn cung, hạn chế những cú sốc giá sau thiên tai, vừa nâng cao thu nhập cho nông dân và tăng sức cạnh tranh của nông nghiệp Việt.
Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi.
Nguồn: https://dantri.com.vn/khoa-hoc/4-mat-xich-mong-manh-day-gia-rau-tang-bang-lan-sau-bao-lu-20251126125031627.htm






Bình luận (0)