Việt Nam được công nhận là một trong 16 quốc gia sở hữu đa dạng sinh học cao nhất thế giới, với kho tàng tài nguyên cây thuốc vô giá, ghi nhận có trên 5.000 loài thực vật và nấm có công dụng làm thuốc. Tuy nhiên, một thực tế đáng báo động là ngành dược trong nước vẫn đang phụ thuộc lớn vào việc nhập khẩu nguyên liệu.
Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) cho biết có tới gần 90% nhu cầu nguyên liệu dược liệu của Việt Nam là phải nhập khẩu, phần lớn là từ thị trường tiểu ngạch, không rõ nguồn gốc và chất lượng. Bối cảnh các dịch bệnh toàn cầu và sự đứt gãy chuỗi cung ứng trong những năm qua đã cho thấy rõ rủi ro của sự phụ thuộc này. Vấn đề tự chủ y tế và an ninh y tế quốc gia trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Trước tình hình đó, chiến lược bản địa hóa dược liệu, dựa trên chính nguồn tài nguyên và tri thức của Việt Nam, được xác định là giải pháp tất yếu. Đây không phải là một bước lùi về quá khứ, mà là một giải pháp kết hợp thông minh, khoa học giữa nền tảng y học cổ truyền và các công cụ của y học hiện đại.
Y học cổ truyền là nền tảng vững chắc của chiến lược bản địa hóa.
Y học cổ truyền: Nền tảng vững chắc của chiến lược bản địa hóa
Để thực hiện bản địa hóa, Việt Nam có lợi thế mà không nhiều quốc gia có được. Thứ nhất, nước ta có vốn là nguồn tài nguyên bản địa. Hàng ngàn loài cây thuốc phân bố khắp các vùng miền là nguồn gen, nguồn nguyên liệu thô vô giá tại chỗ.
Thứ hai, và quan trọng hơn, nước ta có tri thức y học bản địa. Tài nguyên thiên nhiên sẽ mãi chỉ là cây cỏ nếu không có tri thức sử dụng. Việt Nam may mắn sở hữu một nền y học cổ truyền lâu đời, đặc biệt là kho tàng kinh nghiệm vô giá của 54 dân tộc. Đây là tri thức đã được kiểm chứng qua hàng ngàn năm thực tiễn lâm sàng.
Người Dao đỏ ở Sa Pa, Tả Phìn biết chính xác cách phối vị hàng chục loại lá cây để tạo nên bài thuốc tắm phục hồi sức khỏe phụ nữ sau sinh. Người H'Mông trên núi đá Hà Giang, Lai Châu biết dùng các loại rễ cây đặc trị để bó gãy xương. Người Thái, người Ê Đê ở Tây Bắc hay Tây Nguyên lại có những bài thuốc bồi bổ, tăng cường sinh lực từ cây cỏ trong rừng già.
Chính nền tảng y học cổ truyền này giúp việc thực hiện việc bản địa hóa ngay tại tuyến y tế cơ sở. Tại vùng sâu, vùng xa, việc sử dụng các phương pháp dân gian (như xông, tắm lá, các bài thuốc nam) để điều trị các bệnh thông thường như cảm cúm, ho, tiêu chảy, đau nhức... là vô cùng hiệu quả. Điều này không chỉ phù hợp với văn hóa, niềm tin của cộng đồng mà còn giúp giảm chi phí điều trị, giảm tải cho bệnh viện tuyến trên một cách bền vững.
YHCT có thể hỗ trợ y học hiện đại góp phần điều trị có hiệu quả một số triệu chứng trong ung thư. Ảnh minh họa.
Y học hiện đại – Công cụ nâng tầm và chuẩn hóa dược liệu Việt
Y học cổ truyền cung cấp kinh nghiệm và định hướng, nhưng y học hiện đại cung cấp công cụ để chuẩn hóa và nâng tầm. Đây chính là vế thứ hai, mang tính then chốt của chiến lược bản địa hóa.
Một là, y học hiện đại cung cấp tiêu chuẩn cho vùng trồng. Để bản địa hóa thành công và bền vững, chúng ta không thể dựa mãi vào việc khai thác tự nhiên, vốn đang gây cạn kiệt đa dạng sinh học. Y học hiện đại đặt ra yêu cầu phải phát triển các vùng trồng chuyên canh, quy mô lớn, đạt chuẩn quốc tế GACP-WHO (Thực hành tốt trồng trọt và thu hái dược liệu). Tiêu chuẩn này đảm bảo cây thuốc có dược tính ổn định, chất lượng cao, an toàn, và có nguồn cung bền vững. Các mô hình trồng quế hữu cơ ở Lào Cai hay sâm Ngọc Linh ở Quảng Ngãi (Kon Tum cũ) đang là những ví dụ điển hình cho hướng đi này.
Hai là, y học hiện đại giúp khoa học hóa các bài thuốc cổ truyền. Đây là sự kết hợp thông minh nhất. Y học hiện đại dùng các công cụ nghiên cứu dược lý, độc tính, và thử nghiệm lâm sàng hiện đại để chứng minh, lý giải cơ chế tác dụng của các bài thuốc dân gian. Khoa học đã chứng minh các hoạt chất Saponin trong giảo cổ lam (bài thuốc của người H'Mông) thực sự giúp hạ mỡ máu. Khoa học cũng giúp chiết xuất các hoạt chất quý trong lá tắm Dao đỏ để tạo ra các sản phẩm công nghiệp tiện lợi, có thể sử dụng rộng rãi.
Ba là, y học hiện đại giúp tích hợp vào phác đồ điều trị chính quy. Bản địa hóa thành công là khi các sản phẩm thuốc y học cổ truyền (đã được chuẩn hóa GACP, đã được khoa học chứng minh) được sử dụng song song, kết hợp với thuốc Tây trong các phác đồ điều trị tại bệnh viện. BSCKII. Nguyễn Quang Vinh (Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương) cho biết y học cổ truyền có điểm hạn chế trong chẩn đoán, phát hiện và chữa khỏi ung thư, nhưng có thể hỗ trợ y học hiện đại góp phần điều trị có hiệu quả một số triệu chứng trong ung thư, đặc biệt là trong chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối và giảm nhẹ tác hại của xạ trị, hóa trị liệu, điều trị có hiệu quả các biến chứng trong và sau điều trị ung thư bằng tia xạ hoặc hóa chất, nâng cao thể trạng cho các bệnh nhân đang hoặc sau quá trình điều trị ung thư. Ví dụ như các bệnh nhân bị viêm niêm mạc gây chảy máu từ niêm mạc miệng, hầu họng đến trực tràng, bàng quang; đau nhức xương khớp, tê bì chân tay…
Theo Cục Y Dược cổ truyền, bản địa hóa dược liệu không phải là sự lựa chọn giữa y học cổ truyền hay y học hiện đại, mà là sự kết hợp của cả hai. Y học cổ truyền cung cấp định hướng và kinh nghiệm ngàn năm; y học hiện đại cung cấp công cụ chuẩn hóa và kiểm chứng. Con đường này không chỉ giúp Việt Nam tự chủ nguồn cung dược liệu, giảm chi phí khám chữa bệnh, mà còn tạo ra một ngành công nghiệp dược liệu bản địa có giá trị kinh tế cao, đồng thời bảo tồn tri thức dân tộc và phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Xem thêm video được quan tâm:
Nguồn: https://suckhoedoisong.vn/ban-dia-hoa-duoc-lieu-giai-phap-ket-hop-y-hoc-co-truyen-va-hien-dai-tu-nguon-tai-nguyen-ban-dia-169251123222215284.htm






Bình luận (0)