Công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước qua các chỉ thị của Ban Bí thư
Năm 2010, Chỉ thị số 41-CT/TW, ngày 15-4-2010, của Ban Bí thư “Về tăng cường công tác ngoại giao kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, được ban hành. Việc triển khai Chỉ thị đã tạo bước chuyển biến tích cực trong hoạt động ngoại giao kinh tế, góp phần quan trọng tăng trưởng kinh tế, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam và thúc đẩy tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, tình hình quốc tế, khu vực chứng kiến biến chuyển sâu sắc, khó lường, dưới tác động sâu rộng của xung đột địa - chính trị và chiến tranh thương mại diễn biến phức tạp, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng sự bùng nổ công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI), tác động của biến đổi khí hậu... đang tái định hình trật tự thế giới và cấu trúc kinh tế toàn cầu. Đáng chú ý, đại dịch COVID-19 không chỉ gây ra khủng hoảng y tế, mà còn gây thiệt hại về kinh tế, làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, đặt ra yêu cầu cấp bách về thích ứng và đổi mới tư duy trong chính sách đối ngoại nói chung, ngoại giao kinh tế nói riêng. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh giữa các quốc gia không chỉ dừng lại ở thị phần thương mại hay đầu tư, mà còn mở rộng sang lĩnh vực công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo và khả năng ứng phó linh hoạt trước biến động toàn cầu.
Việt Nam, một quốc gia đang nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, coi trọng chất lượng hơn số lượng, việc đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, nâng cao hiệu quả, tính chủ động và linh hoạt của công tác này trở nên cấp thiết. Từ bối cảnh trên, ngày 10-8-2022, Chỉ thị số 15-CT/TW, của Bộ Chính trị, về việc đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước đến năm 2030, đã được ban hành. Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược, mang tính định hướng cao, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế một cách toàn diện, thực chất trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, tập trung vào các nhiệm vụ nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và đường lối đối ngoại mà Đảng đã đề ra.
Chỉ thị số 15-CT/TW đặt ra nhiệm vụ trọng tâm: 1- Nâng cao nhận thức về vai trò của ngoại giao kinh tế, xác định đây là nhiệm vụ trung tâm, động lực quan trọng để phát triển bền vững, huy động nguồn lực bên ngoài, thúc đẩy hội nhập quốc tế; 2- Mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác, đặc biệt là các nước láng giềng, đối tác chiến lược, thông qua việc gắn kết hợp tác kinh tế với các lĩnh vực khác, như chính trị, quốc phòng, và văn hóa; 3- Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA), thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, phát triển khoa học - công nghệ; 4- Lấy doanh nghiệp và người dân làm trung tâm, hỗ trợ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh; 5- Tăng cường nghiên cứu, dự báo, cập nhật thông tin kinh tế thế giới để đưa ra chiến lược hiệu quả; 6- Phối hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia; 7- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao kinh tế, bảo đảm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Để thể chế hóa Chỉ thị số 15-CT/TW, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về triển khai công tác ngoại giao kinh tế. Ngày 20-2-2023, Nghị quyết số 21/NQ-CP, của Chính phủ, ban hành Chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 15-CT/TW, trong đó cụ thể hóa quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp của Chỉ thị số 15-CT/TW, đồng thời gắn chặt chẽ với Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Nghị quyết số 21/NQ-CP quán triệt ngoại giao kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản và trọng tâm của ngoại giao Việt Nam hiện đại, đóng vai trò như động lực thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Công tác này được đặt trong mối liên hệ mật thiết với yêu cầu huy động hiệu quả nguồn lực bên ngoài, phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng, góp phần xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả. Tiếp đó, ngày 2-6-2022, Quyết định số 667/QĐ-TTg năm 2023, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 được ban hành, trong đó nhấn mạnh định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chọn lọc, chất lượng, chú trọng các ngành công nghệ cao, công nghiệp chế biến - chế tạo tiên tiến, năng lượng sạch và phát triển bền vững. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong năm 2024, vốn FDI thực hiện đạt khoảng 25,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm 2023 và là mức giải ngân cao nhất từ trước đến nay(1). Việc ban hành chính sách và văn bản hướng dẫn đã góp phần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về tầm quan trọng của ngoại giao kinh tế, tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong thực thi Chỉ thị số 15-CT/TW, giúp hoạt động này ngày càng đi vào thực chất.
Phát huy hiệu quả trong triển khai thực tiễn
Thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TW và Chỉ thị số 15-CT/TW đã đem lại kết quả tích cực cho ngoại giao kinh tế.
Một là, khai thác hiệu quả hợp tác quốc tế.
Hiện nay, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 38 quốc gia, tạo nền tảng quan trọng để mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Việt Nam chủ động và tích cực thúc đẩy nội hàm kinh tế trong hoạt động đối ngoại, đặc biệt là thông qua các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Năm 2024, gần 60 hoạt động đối ngoại cấp cao đã được triển khai, trong đó nội dung kinh tế nổi lên như một trọng tâm xuyên suốt, mang lại kết quả cụ thể, thiết thực, đặc biệt là chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ tới các nước Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Hàn Quốc, Các Tiểu vương quốc A rập thống nhất (UAE), Ca-ta, A rập Xê-út, Hung-ga-ri, Ru-ma-ni, Đô-mi-ni-ca. Qua đó, hơn 170 thỏa thuận hợp tác đã được ký kết, đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế.
Quan hệ đối ngoại của Việt Nam tiếp tục được mở rộng, nâng tầm và nâng cấp theo hướng thực chất, hiệu quả. Việt Nam không chỉ duy trì và làm sâu sắc thêm lĩnh vực hợp tác truyền thống, như thương mại, đầu tư, du lịch, lao động, mà còn chủ động khai phá lĩnh vực mới, như lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo và vật liệu bán dẫn với sự tham gia của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới... Sự hiện diện ngày càng lớn của các “gã khổng lồ” công nghệ tại Việt Nam cho thấy hiệu quả của ngoại giao kinh tế trong việc thu hút dòng vốn chất lượng.
Với các thị trường mới nổi và còn nhiều dư địa, như khu vực Mỹ La-tinh, Trung Đông - châu Phi, Đông Âu,... Việt Nam triển khai tích cực các hoạt động ngoại giao kinh tế nhằm tìm kiếm hướng đi mới, như phát triển thị trường Halal. Chuyến thăm chính thức tới các nước vùng Vịnh vào cuối tháng 10-2024 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc thiết lập Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Các Tiểu vương quốc A rập thống nhất (VN - UAE CEPA), mở ra cơ hội lớn để Việt Nam có thể xuất khẩu thực phẩm đạt hàng tỷ USD vào thị trường Halal.
Ngoại giao kinh tế cho thấy vai trò xử lý tình huống phát sinh trong quan hệ thương mại quốc tế. Tháng 4-2025, khi Mỹ công bố kế hoạch áp thuế đối ứng đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, Việt Nam đã kịp thời triển khai nỗ lực ngoại giao cấp cao nhằm làm rõ lập trường, tìm kiếm giải pháp phù hợp, hạn chế tác động đến doanh nghiệp và người lao động trong nước.
Chỉ thị số 15-CT/TW được triển khai đồng bộ, từ Trung ương tới các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, địa phương. Trong đó, Bộ Ngoại giao đóng vai trò trung tâm trong việc điều phối các hoạt động ngoại giao kinh tế, tận dụng hệ thống cơ quan đại diện tại nước ngoài để thiết lập các kênh kết nối doanh nghiệp trong nước với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Điển hình là các diễn đàn kinh tế được tổ chức tại nhiều thị trường, như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản,... nơi tập trung đông đảo bà con kiều bào có tiềm lực kinh tế và tri thức. Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn cầu tổ chức hằng năm là cầu nối thúc đẩy hợp tác kinh tế, tạo không gian đối thoại về các vấn đề chiến lược trong phát triển đất nước(2).
Song song với đó, Bộ Công Thương tập trung đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, khai thác hiệu quả mạng lưới các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên, như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Các sự kiện nổi bật, như Tuần lễ hàng Việt Nam tại Pháp, Nhật Bản, UAE đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế, gia tăng giá trị xuất khẩu.
Ở khía cạnh thu hút nguồn lực, Bộ Kế hoạch và Đầu tư điều chỉnh chiến lược quan trọng theo hướng nâng cao chất lượng FDI, tập trung vào các lĩnh vực công nghệ cao và phát triển bền vững. Việc ký kết hợp tác với các tập đoàn lớn, như Apple, Amkor, Lego, Samsung,... cho thấy sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà đầu tư quốc tế. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chú trọng tổ chức các hội nghị quy mô lớn nhằm thúc đẩy đối thoại và hợp tác, cụ thể như sự kiện “Vietnam Global Manufacturing Forum 2024” vào tháng 3-2024, quy tụ hàng trăm doanh nghiệp FDI bàn thảo về chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ 4.0 trong chuỗi sản xuất và cung ứng tại Việt Nam. Cùng với đó, các hoạt động xúc tiến thương mại truyền thống như Hội chợ thương mại quốc tế Việt Nam (VIETNAM EXPO) tiếp tục được duy trì và đổi mới nội dung, hình thức tổ chức để phù hợp hơn với bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.
Kết quả trên cho thấy sự chủ động của Việt Nam trong việc kết hợp ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế, sự phối hợp đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, từ các bộ, ngành đến doanh nghiệp và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Hai là, đẩy mạnh hoạt động trên các diễn đàn đa phương.
Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, công tác ngoại giao kinh tế của Việt Nam góp phần quan trọng trong việc đề xuất, triển khai chính sách đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, qua đó tranh thủ hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế. Thông qua việc tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn đa phương, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Liên hợp quốc (UN), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Việt Nam không chỉ gia tăng sự hiện diện và khẳng định vị thế là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, mà còn tận dụng cơ hội để mở rộng hợp tác kinh tế.
Ngoại giao kinh tế còn đóng vai trò trong đàm phán và ký kết các FTA song phương và đa phương. Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết và tham gia 17 FTA, bao gồm CPTPP, FTA Việt Nam - EU (EVFTA), RCEP,... Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh đàm phán các FTA mới, như với Khối thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Hiệp định ASEAN - Ca-na-da,... Các hiệp định này đã và sẽ góp phần mở ra thị trường xuất khẩu trị giá hàng trăm tỷ USD, đồng thời tạo động lực để cải cách thể chế kinh tế trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công tác ngoại giao kinh tế cũng tập trung tháo gỡ các rào cản thương mại.
Ba là, công tác ngoại giao kinh tế góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu, dự báo và tham mưu chính sách cho đất nước.
Các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài đã phát huy vai trò “mở đường” trong công tác đối ngoại, chủ động theo dõi, phân tích diễn biến tình hình kinh tế toàn cầu, khu vực, cùng chính sách thương mại, đầu tư, tài chính của đối tác; qua đó cung cấp thông tin, tham mưu chính xác và kịp thời cho Chính phủ. Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài cũng tích cực hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu tập quán kinh doanh, pháp luật nước sở tại, thâm nhập thị trường, thúc đẩy đầu tư và kịp thời xử lý khó khăn phát sinh trong bối cảnh tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng phức tạp. Nhờ sự hỗ trợ hiệu quả từ các cơ quan này và cộng đồng người Việt Nam ở nước sở tại, nhiều tập đoàn lớn của Việt Nam, như Viettel, FPT đã mở rộng hoạt động sang thị trường tiềm năng tại châu Phi và khu vực Đông Âu. Đồng thời, hoạt động thương mại quốc tế được chủ động triển khai tại cả châu Âu và châu Á, góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút dòng vốn chất lượng cao, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác với đối tác. Thông qua đó, hình thành mạng lưới chia sẻ thông tin phục vụ công tác hoạch định chính sách phát triển kinh tế đối ngoại một cách chủ động, thích ứng và mang tính chiến lược.
Bốn là, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động nguồn lực của bà con kiều bào.
Ngoại giao kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng để gắn kết và vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là đội ngũ doanh nhân, trí thức kiều bào có tiềm lực, nhằm tạo nên mạng lưới hỗ trợ thiết thực cho công cuộc phát triển đất nước. Với hơn 5,3 triệu người Việt Nam đang sinh sống tại khoảng 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, bà con kiều bào là một “cầu nối” quan trọng trong việc thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ và mở rộng thị trường quốc tế cho hàng hóa Việt Nam.
Nhiều chương trình, như “Diễn đàn kết nối kiều bào với địa phương” hay “Hội nghị gặp mặt doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài” đã được tổ chức, tạo ra cơ hội lan tỏa tri thức, kinh nghiệm quản lý và công nghệ tiên tiến về nước. Năm 2024, mặc dù chịu ảnh hưởng chung của biến động kinh tế toàn cầu, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn ở mức cao, đạt gần 16 tỷ USD, duy trì vị trí trong tốp 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất thế giới, góp phần đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội(3).
Thúc đẩy hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế
Trong thời gian qua, mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực, công tác ngoại giao kinh tế vẫn cần một số điều chỉnh để phát huy tốt hơn hiệu quả trên thực tế. Về mặt chủ quan, nhận thức và năng lực triển khai của các cơ quan làm công tác ngoại giao kinh tế chưa đồng đều. Mặt khác, nhiều cơ quan vẫn còn lúng túng, chưa tận dụng tối đa tiềm năng từ việc nâng cấp quan hệ với các đối tác chiến lược. Quan hệ chính trị với thị trường trọng điểm, như EU, Bắc Mỹ và Trung Đông đã được nâng lên tầm cao mới, nhưng hợp tác kinh tế vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Công tác xúc tiến thương mại chủ yếu mới chỉ tập trung vào một số thị trường lớn, còn bỏ ngỏ nhiều thị trường tiềm năng khác. Hiệu quả hoạt động vẫn phụ thuộc nhiều vào năng lực và sự chủ động của cá nhân lãnh đạo cơ quan đại diện ngoại giao và cán bộ tại chỗ, thay vì một chiến lược tổng thể, đồng bộ và có tính hệ thống. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược chưa được quan tâm đúng mức, trong khi thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phổ biến sâu rộng tới địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều địa phương chưa chủ động tận dụng cơ hội từ FTA. Một thách thức lớn khác là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng, trong khi cơ cấu tổ chức của cơ quan đại diện ngoại giao chưa được tối ưu để hỗ trợ doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Bối cảnh quốc tế tiếp tục đặt ra yêu cầu và thách thức không nhỏ đối với công tác ngoại giao kinh tế của Việt Nam. Mặc dù có thời điểm tạm lắng, song căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc vẫn tiếp tục căng thẳng, tác động đến kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, như internet vạn vật (IoT), AI, tự động hóa, đang định hình chuỗi giá trị toàn cầu, tạo áp lực chuyển đổi mạnh mẽ đối với các nền kinh tế đang phát triển.
Ở trong nước, bên cạnh thuận lợi, như nền tảng chính trị ổn định, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao và sự tham gia sâu rộng vào các FTA thế hệ mới, việc khai thác hiệu quả cơ hội từ các hiệp định này vẫn gặp nhiều trở ngại. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế, cơ chế, chính sách để khai thác hiệu quả cơ hội từ các hiệp định FTA chưa đồng bộ, cơ sở hạ tầng số và nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu hụt. Thực tiễn đó đặt ra không ít thách thức, nhưng cũng mở ra nhiều cơ hội cho công tác ngoại giao kinh tế.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều biến động, giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi công tác ngoại giao kinh tế phải được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ và hiệu quả hơn bao giờ hết. Đây không chỉ là yêu cầu cấp thiết nhằm huy động tối đa nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng không gian hợp tác và thị trường, mà còn là giải pháp then chốt để nâng cao vị thế và sức cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của ngoại giao kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thực tiễn cho thấy, việc chưa hiểu đúng, đầy đủ về ngoại giao kinh tế dẫn đến tình trạng bị động trong triển khai vẫn xảy ra, dẫn tới giảm hiệu quả công tác. Nhận thức đúng giúp đổi mới về tư duy, bảo đảm để hoạt động ngoại giao kinh tế được triển khai bài bản, phát huy tính chủ động và sáng tạo. Đây là yếu tố quan trọng trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Ngoài ra, thường xuyên phổ biến, cập nhật cho các cấp, các ngành liên quan về chính sách, pháp luật trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, cam kết hội nhập quốc tế, cũng như thách thức mới phát sinh. Đây là yêu cầu cần được triển khai đồng bộ với cơ chế phối hợp chặt chẽ, thông suốt giữa cơ quan trong nước và cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, tránh tình trạng chồng chéo, bị động hoặc phản ứng chậm trước biến động quốc tế. Khi nắm vững nội dung này, các ngành, địa phương và doanh nghiệp chủ động hơn, giảm thiểu rào cản hữu hình và vô hình trong hoạt động kinh tế đối ngoại, qua đó nâng cao hiệu quả và đạt được kết quả thiết thực hơn.
Thứ hai, tập trung củng cố tổ chức bộ máy và tăng cường cơ chế phối hợp giữa cơ quan trong nước với cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Việc thiết lập một hệ thống vận hành đồng bộ, liên thông giữa các thương vụ, văn phòng kinh tế, đại sứ quán, lãnh sự quán tạo nền tảng vững chắc triển khai hiệu quả nhiệm vụ ngoại giao kinh tế. Trong đó, cơ quan đại diện không chỉ đảm nhiệm chức năng ngoại giao chính trị, mà còn đóng vai trò cầu nối chiến lược trong thúc đẩy hợp tác đầu tư, thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu.
Ở trong nước, tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Bộ Ngoại giao với các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp theo hướng tinh gọn, đồng bộ và hiệu quả trong triển khai chính sách ngoại giao kinh tế. Việc thiết lập các nhóm công tác liên ngành, duy trì hội nghị đối thoại định kỳ giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước sẽ góp phần tháo gỡ kịp thời vướng mắc, rào cản trong hợp tác kinh tế quốc tế. Đáng chú ý, từ đầu năm 2025, Bộ Ngoại giao đã thành lập Vụ Ngoại giao kinh tế thay thế cho hai vụ Tổng hợp kinh tế và Kinh tế đa phương. Đây là bước đi quan trọng, không chỉ hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao, mà còn tạo nền tảng để nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế. Với cơ cấu mới này, ngoại giao kinh tế sẽ có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư thông qua việc cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình xuất - nhập khẩu, đăng ký đầu tư và cấp phép kinh doanh, qua đó tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch và có tính cạnh tranh cao cho doanh nghiệp. Hiện nay, vướng mắc này vẫn là rào cản không chỉ đối với doanh nghiệp trong nước, mà còn đối với đối tác nước ngoài. Khi rào cản được dỡ bỏ, hiệu quả hoạt động sẽ được nâng cao, mang lại lợi ích thiết thực cho tất cả các bên. Đồng thời, điều này góp phần mở rộng thị trường, đa dạng hóa đối tác - yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp khai thác hiệu quả các FTA thế hệ mới, từ việc tiếp cận thông tin, tư vấn pháp lý đến kết nối đối tác chiến lược. Đặc biệt, khuyến khích và tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài nhằm tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao năng lực quản trị, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực theo tiêu chuẩn thị trường quốc tế. Thực hiện tốt đồng bộ hai nhiệm vụ này sẽ giúp phát huy tối đa tiềm năng của cộng đồng doanh nghiệp, qua đó tăng cường sức cạnh tranh và sức mạnh tổng thể của nền kinh tế.
Thứ tư, phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại theo chiều sâu và đa dạng hóa thị trường. Tập trung củng cố, mở rộng hợp tác với đối tác kinh tế, đồng thời chủ động khai thác thị trường tiềm năng ở châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh, Nam Á, Trung Đông... tránh phụ thuộc vào một vài thị trường truyền thống. Như đã biết, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại là chủ trương xuyên suốt của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc mở rộng thị trường mới không chỉ hiện thực hóa chủ trương này, mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam phát huy tối đa tiềm năng, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Cũng cần nhấn mạnh rằng, trong quá trình triển khai biện pháp trên, cần gắn kết hoạt động kinh tế với đặc thù văn hóa, pháp lý và nhu cầu của từng thị trường; chú trọng phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao, mang tính khác biệt và đáp ứng xu thế toàn cầu, như kinh tế xanh, năng lượng sạch, công nghiệp sinh học và công nghệ số. Cách tiếp cận này giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế bền vững của thế giới. Qua đó, Việt Nam vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong xây dựng một thế giới văn minh, tiến bộ.
Thứ năm, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao kinh tế, chú trọng đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu nhằm xây dựng lực lượng cán bộ có trình độ chuyên môn cao, am hiểu luật pháp quốc tế, thành thạo kỹ năng đàm phán. Đồng thời, cần ban hành chính sách đãi ngộ hợp lý, kịp thời động viên, khích lệ cán bộ đảm nhiệm lĩnh vực này. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ này không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt, mà còn bảo đảm năng lực cạnh tranh lâu dài, mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực, góp phần lan tỏa và quảng bá hình ảnh một dân tộc Việt Nam sáng tạo và bản lĩnh trong xây dựng, phát triển đất nước.
Thứ sáu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngoại giao kinh tế, coi đây là một giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao hiệu quả và tính kịp thời của công tác này. Trước hết, cần xây dựng và hoàn thiện hạ tầng số phục vụ ngoại giao kinh tế, giúp cơ quan ngoại giao cập nhật nhanh chóng, chính xác diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế, đồng thời tạo nền tảng cho việc phân tích, dự báo và kiến nghị chính sách một cách chủ động. Song song với đó, phát triển nền tảng số kết nối chặt chẽ giữa cơ quan ngoại giao, cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh công nghệ số ngày càng trở thành xu thế tất yếu trong lĩnh vực đối ngoại, việc số hóa quy trình giúp rút ngắn thời gian, giảm chi phí, mở rộng khả năng tiếp cận để doanh nghiệp Việt Nam khai thác linh hoạt hơn cơ hội kinh doanh trên phạm vi toàn cầu.
Thứ bảy, phát huy hiệu quả sức mạnh mềm và giá trị thương hiệu quốc gia, thông qua việc tận dụng tối đa diễn đàn quốc tế, sự kiện văn hóa, thể thao, hội chợ và triển lãm thương mại để quảng bá hình ảnh một Việt Nam năng động, sáng tạo, thân thiện và đáng tin cậy. Xây dựng và triển khai chiến lược thương hiệu quốc gia gắn liền với chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn xanh và định hướng đổi mới sáng tạo, bảo đảm phù hợp với xu thế phát triển bền vững toàn cầu. Đồng thời, chú trọng phát huy vai trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài như một mạng lưới đối ngoại nhân dân rộng khắp, vừa là cầu nối thúc đẩy hợp tác đầu tư, thương mại, khoa học - công nghệ, vừa là lực lượng lan tỏa mạnh mẽ hình ảnh và giá trị Việt Nam. Điều này không chỉ gia tăng uy tín, mà còn tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài cho Việt Nam trên trường quốc tế./.
-----------------
(1) Minh Ngọc: “Năm 2024, vốn FDI giải ngân cao kỷ lục”, Báo điện tử Chính phủ điện tử, ngày 6-1-2025
(2) “Khai mạc Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4”, Báo điện tử Tiếng nói Việt Nam (VOV), ngày 22-8-2024, https://vov.vn/nguoi-viet/khai-mac-hoi-nghi-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-toan-the-gioi-lan-thu-4-post1116021.vov
(3) Thúy Hà: “Thu hút kiều hối: Điểm sáng nổi bật của kinh tế Việt Nam”, TTXVN/Vietnam+, ngày 26-1-2025, https://www.vietnamplus.vn/thu-hut-kieu-hoi-diem-sang-noi-bat-cua-kinh-te-viet-nam-post1007975.vnp
Nguồn: https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/1131102/cong-tac-ngoai-giao-kinh-te--thuc-trang-va-giai-phap-thuc-day.aspx






Bình luận (0)