Trên cơ sở ý kiến cơ quan thẩm tra, ý kiến các ĐBQH thảo luận tại tổ và tại Hội trường cũng như việc đánh giá tác động chính sách, Chính phủ đã tiếp thu và trình Quốc hội thông qua nội dung điều chỉnh mức doanh thu không phải nộp thuế của hộ, cá nhân kinh doanh từ 200 triệu đồng/năm lên 500 triệu đồng/năm.
Tại khoản 1 Điều 7 của Luật cũng quy định Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức doanh thu không phải nộp thuế thu nhập cá nhân để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Như vậy sẽ tạo ra sự linh hoạt trong quá trình thực thi.
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 7 cũng cho phép trừ mức 500 triệu đồng/năm này trước khi tính thuế theo tỷ lệ trên doanh thu. Đồng thời, điều chỉnh mức doanh thu không chịu thuế giá trị gia tăng tương ứng lên 500 triệu đồng. Quy định này giúp giảm gánh nặng về thuế đối với những hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nhỏ cũng như bảo đảm khâu thực thi đơn giản, minh bạch.
Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) cũng có nhiều điểm mới, trong đó cho phép các hộ và cá nhân kinh doanh có mức doanh thu năm trên 500 triệu đồng/năm đến 3 tỷ đồng/năm có quyền được lựa chọn hình thức nộp thuế.
Thứ nhất, có thể chọn hình thức tính thuế trên thu nhập (lấy doanh thu trừ đi chi phí) và áp dụng thuế suất 15%. Điều này góp phần tạo hành lang pháp lý công bằng, bình đẳng, phù hợp với điều kiện kinh doanh của các hộ, cá nhân kinh doanh. Qua đó, hỗ trợ cá nhân yên tâm sản xuất kinh doanh, ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho bản thân các hộ kinh doanh chuyển đổi thành các doanh nghiệp.
Thứ hai, tính thuế theo doanh thu, phụ thuộc vào việc xác định theo từng ngành nghề khác nhau, thì mức thuế khác nhau, mức 0,5 - 2% tùy ngành nghề. Với mức thuế suất khác nhau như vậy sẽ phù hợp với các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, bảo đảm chính sách thuế hài hòa, cân bằng, dễ thực hiện và tạo được nhiều quyền hơn cho chủ thể nộp thuế.
Liên quan đến mức giảm trừ gia cảnh, Luật quy định “cứng” 15,5 triệu đồng/tháng đối với bản thân người nộp thuế và 6,2 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc. Quy định cụ thể như vậy, bởi lẽ mức giảm trừ gia cảnh của mỗi cá nhân là số tiền liên quan trực tiếp đến việc xác định nghĩa vụ thuế của cá nhân đối với Nhà nước.
Mặt khác, khoản 2 Điều 55 Hiến pháp quy định, các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định. Do đó, để bảo đảm chính sách phù hợp với quy định Hiến pháp, mức giảm trừ gia cảnh cần phải được thể hiện trong luật.
Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 10 Luật cũng quy định: căn cứ vào biến động của giá cả và thu nhập, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức giảm trừ gia cảnh phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ.
Như vậy, nếu trong quá trình thực thi luật có những biến động liên quan đến giá cả và thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của Nhân dân, thì Chính phủ vẫn có trách nhiệm đánh giá tình hình và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiến hành điều chỉnh.
Việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh vẫn thể hiện tính linh hoạt cũng như bảo đảm đúng quy định về thẩm quyền lập pháp.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/dbqh-hoat-dong-chuyen-trach-tai-uy-ban-kinh-te-va-tai-chinh-pham-thi-hong-yen-giam-ganh-nang-ve-thue-bao-dam-khau-thuc-thi-don-gian-minh-bach-10400405.html






Bình luận (0)