Khoa học và công nghệ giữ vai trò trung tâm trong chiến lược phát triển xanh và trung hòa carbon của Việt Nam. Tuy nhiên, công nghệ chỉ trở thành động lực khi được chuyển giao và ứng dụng thực tế. Khoảng cách giữa nghiên cứu-chính sách-thị trường vẫn là điểm nghẽn lớn của chuyển đổi xanh. Đột phá chuyển giao công nghệ vì thế là chìa khóa mở ra không gian tăng trưởng mới cho mục tiêu Net Zero.
Thu hẹp khoảng cách nghiên cứu-chính sách-thị trường
Để đạt mục tiêu trung hòa carbon, Việt Nam đang chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào khai thác tài nguyên sang mô hình dựa trên tri thức, đổi mới sáng tạo và công nghệ xanh.
Theo Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, khoa học và công nghệ là trụ cột giúp cấu trúc lại mô hình phát triển theo hướng hiệu quả tài nguyên và giảm phát thải.
Ông Trần Quốc Cường, Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhấn mạnh: “Đột phá về chuyển giao công nghệ, được hỗ trợ bởi hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, là một trong những động lực chính để đạt mục tiêu chuyển đổi xanh”. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong nước đã hình thành với hơn 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên, để công nghệ lan tỏa và tạo giá trị thực, cần có sự kết nối chặt chẽ giữa viện nghiên cứu, doanh nghiệp và địa phương, thay vì dừng ở các mô hình trình diễn.
Thực tế thị trường cũng cho thấy xu hướng này, trong đó có nhiều mô hình nông nghiệp đã chứng minh khi công nghệ, con người và tài nguyên được liên kết đúng cách, có thể hình thành hệ sinh thái nông nghiệp tuần hoàn toàn diện.
Song song với đó, Bộ Khoa học và Công nghệ đang thúc đẩy phát triển sàn giao dịch công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo, quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ và các chương trình trình diễn giải pháp xanh.
Công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) cũng mở ra những công cụ mạnh để giám sát phát thải, tối ưu hóa năng lượng và xây dựng nhà máy thông minh, đô thị xanh hay nông nghiệp tuần hoàn.
Ở cấp địa phương, nhiều mô hình chuyển đổi xanh đã được lồng ghép vào chiến lược phát triển. Tại thành phố Huế, định hướng đô thị di sản-sinh thái-thông minh giúp gắn kết chuyển đổi xanh với du lịch bền vững và giảm rác thải nhựa.
Chuyển đổi xanh tại tỉnh Quảng Trị lại được thúc đẩy theo hướng phát triển năng lực số cộng đồng. Phong trào “Bình dân học vụ số”, kết hợp với đào tạo AI và dữ liệu cho cán bộ, giúp địa phương đưa công nghệ vào quản lý tài nguyên, quy hoạch và dịch vụ công một cách thực chất hơn.
Công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) cũng mở ra những công cụ mạnh để giám sát phát thải, tối ưu hóa năng lượng và xây dựng nhà máy thông minh, đô thị xanh hay nông nghiệp tuần hoàn.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, Đồng bằng sông Cửu Long là nơi thể hiện rõ vai trò của chuyển giao công nghệ gắn với đào tạo nhân lực tại chỗ. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đang kết nối nghiên cứu, ứng dụng, đào tạo cho vùng, phát triển các giải pháp nông nghiệp thích ứng mặn, kinh tế tuần hoàn và năng lượng tái tạo trong nuôi trồng thủy sản…
Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp tỉnh theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 mở ra cơ hội hình thành cơ chế điều phối vùng thống nhất, điều kiện quan trọng để triển khai các dự án khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cơ chế thử nghiệm linh hoạt
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Chinh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế môi trường Việt Nam, chính sách phát triển xanh vẫn tồn tại nhiều điểm nghẽn lớn. Chẳng hạn như ưu đãi chưa đồng bộ, công nghệ trong nước còn lạc hậu, nhân lực vận hành công nghệ xanh thiếu hụt; đồng thời, sự phối hợp giữa “ba nhà” - Nhà nước, viện-trường và doanh nghiệp chưa hiệu quả khiến nhiều kết quả nghiên cứu chưa đi được vào sản xuất.
Đây đều là những yếu tố trực tiếp cản trở khả năng hấp thụ và triển khai công nghệ hiện đại trong doanh nghiệp. Vì vậy, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo dựa trên đột phá khoa học-công nghệ và sự phối hợp thực chất giữa “ba nhà” trở thành yêu cầu cấp thiết.
Các chuyên gia cho rằng, khi việc nghiên cứu, ươm tạo, trình diễn, thị trường được kết nối thông suốt, năng lực đổi mới công nghệ mới có thể trở thành lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế xanh. Tuy nhiên, nút thắt lớn nhất hiện nay nằm ở chính khâu chuyển giao.
Tiến sĩ Phạm Bá Việt Anh, Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cho biết, để công nghệ xanh thật sự đi vào cuộc sống, cần chuyển từ tư duy “truyền đạt” sang “đặt hàng”, có nghĩa là: Địa phương nêu bài toán, viện-trường phát triển giải pháp, doanh nghiệp triển khai và mở rộng.
Thực tế cho thấy nhiều công nghệ đã sẵn có, nhưng thiếu cơ chế đặt hàng, thiếu không gian thí điểm (sandbox) và tâm lý e ngại rủi ro khiến các chủ thể muốn hợp tác nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu.
Các mô hình thử nghiệm như WoodID hay tín chỉ xanh P-Coin của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông chứng minh rằng, khi có không gian thử nghiệm phù hợp, sáng kiến hoàn toàn có thể tạo tác động và lan tỏa vào cộng đồng.
Điều này cho thấy sự cần thiết của các cơ chế thử nghiệm linh hoạt, tạo điều kiện để công nghệ mới được kiểm chứng, hoàn thiện và bước vào thị trường nhanh hơn. Các trường đại học cũng nhấn mạnh hai trụ cột then chốt để thu hẹp khoảng cách công nghệ, đó là thể chế cho phép thử nghiệm công nghệ mới một cách linh hoạt và phát triển nguồn nhân lực xanh-số, nhất là trong các lĩnh vực như thu giữ carbon, lưu trữ năng lượng hay quản trị tài nguyên dựa trên dữ liệu.
Để công nghệ xanh thật sự đi vào cuộc sống, cần chuyển từ tư duy “truyền đạt” sang “đặt hàng”, có nghĩa là: Địa phương nêu bài toán, viện-trường phát triển giải pháp, doanh nghiệp triển khai và mở rộng.
Tiến sĩ Phạm Bá Việt Anh, Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Thực tiễn từ nông nghiệp thông minh, đô thị sinh thái hay kinh tế tuần hoàn cho thấy, để tạo chuyển biến rõ rệt, cần chuyển sang mô hình đặt hàng-sandbox-hậu kiểm, cho phép thí điểm công nghệ mới trong phạm vi kiểm soát, đồng thời hình thành quỹ chuyển đổi xanh cấp địa phương gắn với tín dụng xanh và huy động nguồn lực quốc tế...
Bên cạnh đó, liên kết “ba nhà” cần được triển khai theo chuỗi dự án với cơ chế chia sẻ rủi ro, lợi ích công bằng, đi cùng đào tạo nhân lực vận hành ngay tại cộng đồng để bảo đảm công nghệ không chỉ được chuyển giao mà còn được sử dụng hiệu quả.
Tinh thần này được nhấn mạnh tại Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Đối tác vì tăng trưởng xanh và Mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) lần thứ tư tại Hà Nội năm nay. Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định: “Chuyển đổi xanh là một chặng đường dài. Bởi vậy, chúng ta cần xây dựng một hệ sinh thái xanh hoàn chỉnh và cân bằng, bao gồm thể chế xanh, hạ tầng xanh, nhân lực xanh, công nghệ xanh, dữ liệu xanh và văn hóa xanh”.
Từ yêu cầu đó, Bộ Khoa học và Công nghệ xác định năm nhóm đột phá chiến lược về thể chế, công nghệ nền tảng, tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo xanh và nhân lực, hợp tác quốc tế, nhằm chuyển khoa học-công nghệ từ vai trò hỗ trợ sang kiến tạo mô hình tăng trưởng mới. Trong đó, hệ thống tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng là nền tảng quan trọng giúp chuyển đổi xanh vận hành thực chất.
Chuyển đổi xanh vì vậy không chỉ là yêu cầu ứng phó biến đổi khí hậu mà còn là hướng đi tất yếu để tăng năng lực cạnh tranh và bảo đảm an ninh phát triển trong dài hạn.
Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo vừa được ban hành là bước đột phá quan trọng, khi lần đầu đưa “chuyển đổi xanh” và “kinh tế tuần hoàn” vào mục tiêu chiến lược.
Trong giai đoạn tới, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục đồng hành cùng các bộ, ngành, địa phương triển khai luật theo hướng phát triển thị trường công nghệ, thị trường carbon và nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp.
Nguồn: https://nhandan.vn/dot-pha-chuyen-giao-cong-nghe-cho-muc-tieu-net-zero-post923432.html






Bình luận (0)