Nguồn lực con người là tài sản quý giá và bền vững nhất của mọi nền kinh tế. Trong đó, niềm tin là nền tảng tạo nên các giá trị cốt lõi khác như: sự gắn bó, động lực và mục tiêu phát triển, qua đó thúc đẩy hiệu suất và khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo. Chính niềm tin mạnh mẽ vào chân lý và chất lượng làm nên bản sắc, giúp con người nuôi dưỡng khát vọng sáng tạo, hướng tới các giá trị “chân - thiện - mỹ”, góp phần kiến tạo sự phát triển bền vững của xã hội và nhân loại.
Niềm tin dẫn đến sự đoàn kết dựa trên sự chia sẻ mục đích chung, nhận thức về sự công bằng về lợi ích của các chủ thể kinh tế - xã hội. Niềm tin sẽ đạt được khi các nguồn lực quốc gia được sở hữu, sử dụng, khai thác, bảo tồn và phát triển để các giá trị hiện hữu và giá trị gia tăng của chúng phải được định lượng và chia sẻ (shared values) công khai, công bằng và minh bạch trong cộng đồng.
Ở Việt Nam, trong cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc: độc lập và tự do là mục đích và giá trị chung nên các nguồn lực được tập trung hết một cách tự nhiên với sự tự nguyện của tất cả các chủ thể nhằm đem lại giải phóng và thống nhất dân tộc… Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh với bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ năm 1945 và khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã đem lại một niềm tin vào tương lai tốt đẹp và lãnh đạo dân tộc đang chìm đắm trong nghèo khổ của chế độ phong kiến và thuộc địa đứng lên, đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và cuối cùng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.
Khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển, với mục đích độc lập, tự do đã đạt được và gần như được mặc định thì một môi trường xã hội mới hình thành cần có môi trường pháp lý toàn diện và bình đẳng hơn đảm bảo các nguồn lực kinh tế - xã hội được bảo vệ, chia sẻ, sử dụng và phát triển công bằng giữa các chủ thể. Chính vì vậy, cơ chế kế hoạch hóa mang tính chất bình quân thời chiến được áp dụng sau khi đất nước thống nhất đã trở nên lạc hậu và cản trở phát triển. Tuy nhiên, điều may mắn của đất nước là ngay trong thời kỳ khó khăn đó của đất nước, chúng ta có niềm tin mãnh liệt vào lãnh tụ Hồ Chí Minh với lời dạy: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Với niềm tin tuyệt đối đó vào Đảng, đúng vào lúc cuộc sống đất nước trong thời kỳ tiền đổi mới đầy khó khăn và thách thức đã xuất hiện các ý tưởng “xé rào” và thí điểm giao ruộng khoán ở Phú Thọ (Vĩnh Phúc cũ) cho từng hộ nông dân trong việc đột phá cơ chế, phát huy nguồn lực con người để nâng cao năng suất và đời sống người dân.
Và điều kỳ diệu “khoán chui” của các cá nhân con người đơn lẻ, bình dị và dũng cảm ấy đã được nhân lên thành nguồn lực xã hội to lớn trong thể chế kinh tế mới của Đảng thông qua Nghị quyết 24 năm 1980 của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng về khoán sản phẩm nông nghiệp. Hải Phòng đã thực hiện thành công mô hình đột phá kinh tế này, để rồi không lâu sau, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100 năm 1981, công nhận khoán sản phẩm làm nền tảng pháp lý phát triển nền nông nghiệp cả nước.
Và trong công cuộc đổi mới kinh tế đó, Việt Nam đã không chỉ thoát nghèo đói và từng bước bảo đảm an ninh lương thực mà còn nhanh chóng trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Sự đột phá và thành công của ngành sản xuất nông nghiệp đã lan tỏa sang các ngành khác, hướng tới nền kinh tế thị trường dựa vào xuất khẩu… là nền tảng cho lý luận và thực tiễn phát triển nguồn lực con người và xã hội cũng như hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước…
Thực tiễn lịch sử xây dựng và phát triển đất nước đó của Việt Nam một lần nữa đã chứng minh: con người là nguồn lực quan trọng nhất và niềm tin là điều cốt lõi của sức mạnh nguồn lực con người. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XIV (2026) vừa tròn 40 năm. Kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ phát triển tương đối nhanh, trở thành nước đang phát triển thu nhập trung bình. Nền kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm. Ba đột phá chiến lược được thực hiện đồng bộ, trọng tâm, trọng điểm, đạt kết quả nổi bật, tạo nền tảng và động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nền hành chính quốc gia được cải cách theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại với sự sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đã đạt được những kết quả mang tính đột phá.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn dựa vào xuất khẩu nông sản, nguyên liệu thô và sản phẩm gia công… đang đứng trước nguy cơ tụt hậu, khả năng rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn do năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ khoa học, công nghệ và nhân lực chất lượng cao còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phát triển còn nhỏ lẻ, chưa thực sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng và thiếu các sản phẩm có sức cạnh tranh về quy mô kinh tế. Hơn nữa, việc sử dụng, tích lũy phát triển các nguồn lực quốc gia còn thiếu hiệu quả đồng bộ và sự tập trung.
Để hoàn thiện và phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong kỷ nguyên mới, cần xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, qua đó củng cố niềm tin của toàn Đảng, toàn dân vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Đây cũng chính là nền tảng để khơi dậy và phát huy nguồn lực nhân tài, nuôi dưỡng tinh thần đổi mới sáng tạo gắn với những mô hình thể chế kinh tế hiện đại, bền vững. Văn kiện Đại hội Đảng XIV sắp tới sẽ là dấu mốc quan trọng, định hướng cho những chương trình, mô hình phát triển kinh tế mang tính đột phá, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt là những thời khắc mang tính bước ngoặt của lịch sử, niềm tin luôn là nguồn động lực tinh thần vô giá, giúp con người vượt qua thách thức và là yếu tố cốt lõi trong phát triển nguồn lực con người.
Trong kỷ nguyên số, khi thế giới vận hành với tốc độ chưa từng có, niềm tin con người càng trở thành sức mạnh lan tỏa, tạo nên nguồn lực tinh thần to lớn thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, niềm tin chỉ thực sự bền vững khi được đặt trong khuôn khổ của một Nhà nước pháp quyền hiện đại, với cơ chế quản trị hiệu quả, đồng bộ và minh bạch, biết chuyển hóa các nguồn lực thành sức mạnh cộng hưởng quốc gia. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Muốn làm tốt, mô hình tổ chức bộ máy và hệ thống quy định pháp luật phải được toàn xã hội đồng lòng thực hiện, không thể để bộ máy mỗi người đi một hướng”.
Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng ta, cùng thành tựu 40 năm đổi mới, là minh chứng sinh động cho sức mạnh của niềm tin nhân dân đặt vào Đảng - một Đảng tiên phong, trong sạch, với những đảng viên thực sự là “người đầy tớ trung thành của Nhân dân”, vì mục tiêu hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững của đất nước.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/gop-y-du-thao-van-kien-dai-hoi-lan-thu-xiv-cua-dang-con-nguoi-tai-san-quy-gia-va-ben-vung-nhat-cua-moi-nen-kinh-te-10393297.html






Bình luận (0)