Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

יצירות ספרותיות בנושא מלחמה מעוררות התבוננות מעמיקה יותר בהיסטוריה ובעקבות שלום.

דרכי חשיבה וראייה כאלה ניתן למצוא בספר "מיפוי מלחמה בספרות וייטנאמית מודרנית" - קובץ חדש של מאמרים וביקורות שיצא לאור על ידי הוצאת הספרים Literature Publishing House ברבעון השלישי של 2025.

Báo Nhân dânBáo Nhân dân05/10/2025

Tập tiểu luận phê bình "Ánh xạ chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại".
Tập tiểu luận phê bình "Ánh xạ chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại".

Năm 1978, trong một bài viết trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số tháng 11, nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930-1989) đã nhấn mạnh rằng cần "viết khác đi" về chiến tranh, không "tô hồng" hay tiếp tục lối viết đã được quy phạm hóa về đề tài đó nữa. Mặc dù yêu cầu này được Nguyễn Minh Châu đặt ra cho các nhà văn Việt Nam, nhưng "viết khác đi", suy cho cùng, lại chính là đòi hỏi đối với người cầm bút nói chung, trong đó có cả các nhà nghiên cứu-phê bình, khi tiếp cận một đề tài đặc thù như chiến tranh.

Đòi hỏi ấy không đơn thuần là diễn đạt bằng những ngôn từ khác, mà hơn hết là những cách nghĩ khác, cách nhìn khác, thấu thị, toàn diện, sâu sắc và nhân văn hơn về chiến tranh và những tác phẩm văn học-nghệ thuật về chiến tranh, nhất là trong bối cảnh hậu chiến ở Việt Nam, khi chiến tranh đã trở thành quá khứ và không còn là nỗi ám ảnh thường trực trong tâm trí của mỗi người.

"Ánh xạ chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại" bao gồm 14 tiểu luận của các tác giả Nguyễn Đăng Điệp, Trần Khánh Thành, Nguyễn Bích Thu, Nguyễn Phượng, Đặng Thu Thủy, Đỗ Hải Ninh, Lê Thị Hương Thủy, Hồ Khánh Vân, Nguyễn Thị Năm Hoàng, Đỗ Thị Thu Huyền, Nguyễn Minh Huệ, Đào Thị Hải Thanh, Đặng Thị Thái Hà, Vũ Thị Kiều Chinh và Trịnh Đặng Nguyên Hương. Cuốn sách được tài trợ bởi Chương trình Đầu tư sáng tác văn học của Bộ Quốc phòng năm 2025, thông qua Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

image-4.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Dũng trình bày ý kiến tại một hội thảo về đề tài văn học viết về chiến tranh.

Tập trung khám phá các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh của văn học Việt Nam hiện đại, 14 tiểu luận trong cuốn sách này được chia thành ba phần lớn: Chiến tranh cách mạng trong văn học Việt Nam hiện đại: Những quan sát tổng thể; Chiến tranh từ những điểm nhìn cá nhân: ký ức, nội lực và tương thích; Chiến tranh: những tiếp cận từ góc nhìn giới, dân tộc, lịch sử và sinh thái

Như tên gọi, phần 1 là những quan sát tổng thể về các ánh xạ của hai cuộc chiến tranh cách mạng trong văn học Việt Nam kể từ năm 1945 đến nay, với 5 tiểu luận công phu của các nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp, Trần Khánh Thành, Nguyễn Phượng, Đặng Thu Thủy và Nguyễn Thị Năm Hoàng.

Xem xét ánh xạ của chiến tranh ở những tác phẩm ra đời ngay trong hoàn cảnh bom đạn như thơ kháng chiến, tác giả Đặng Thu Thủy không chỉ nêu bật những nguyên tắc đặc thù của sáng tạo và tiếp nhận ở giai đoạn 1945-1975 như nguyên tắc tính Đảng, nguyên tắc văn học phục vụ đại chúng, mà còn đi sâu vào những trường hợp vượt ra ngoài các giới hạn và khuôn khổ ấy như một số thi phẩm về chiến tranh và người lính của Quang Dũng, Hữu Loan, Phạm Tiến Duật, Ngô Văn Phú và Lưu Quang Vũ. Xem xét các bài thơ từng bị coi là cung đàn lạc điệu ở thời điểm chúng ra đời, Đặng Thu Thủy nhìn thấy ở đó những tiếng nói thành thực với cảm xúc của chính mình khi chủ thể trực tiếp chứng kiến và nếm trải sự dữ dội, khủng khiếp của chiến tranh.

z6896450575489-875cc9decdab6237b536705c1c2b6d3c-7243.jpg
Các tác phẩm văn học đề tài chiến tranh cách mạng đã mang lại nguồn cảm hứng sâu sắc trong đời sống sáng tạo của các văn nghệ sĩ.

Cũng tiếp cận hình tượng người lính trong văn học như Đặng Thu Thủy nhưng ở một phạm vi khác là truyện ngắn sau năm 1975, tiểu luận của Nguyễn Thị Năm Hoàng đã cho thấy những miêu tả, những cảm xúc từng là "sự vượt ngưỡng" ở giai đoạn 1945-1975 đã trở thành khuynh hướng chung của nhiều tác phẩm truyện ngắn ở Việt Nam sau năm 1975, khi người cầm bút giã từ cái nhìn sử thi để chuyển sang cái nhìn đời tư, thế sự với cảm quan hiện thực và sự thể hiện nhân bản nhất về con người.

Truyện ngắn, như tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng đánh giá, đã "thể hiện ánh xạ của chiến tranh với nhiều biến đổi, nhiều sắc thái mới, phản ánh sự vận động của văn học Việt Nam trong thời kỳ hậu chiến và đổi mới so với văn học giai đoạn trước".

Trong khi đó, tiểu luận của nhà nghiên cứu Nguyễn Phượng tập trung vào các tiểu thuyết về chiến tranh được viết sau năm 1975, mảng văn học mà theo quan sát của ông, chưa lôi cuốn được độc giả hôm nay bước vào "cái thế giới từng là nỗi kinh hoàng, là niềm vinh dự, là những biến động vô cùng to lớn, hết sức hào hùng và cũng là một sự kiện bất thường, khốc liệt đã phũ phàng can thiệp vào số phận của hàng triệu con người" như chiến tranh.

Tác giả thẳng thắn chỉ ra những căn nguyên khiến cho tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh sau năm 1975 chưa tạo ra sức tác động mạnh mẽ trong lòng độc giả, đó là tiểu thuyết còn quá trung thành với chủ nghĩa kinh nghiệm; thiếu vắng những tính cách, những số phận độc đáo, riêng biệt; và chưa đối diện với những bí hiểm của tâm hồn con người.

Không đi sâu vào từng thể loại như ba nhà nghiên cứu trên đây, tác giả Nguyễn Đăng Điệp soi chiếu toàn bộ văn học về chiến tranh cách mạng ở Việt Nam để nhìn ra những khác biệt giữa văn học thời chiến (1945-1975) và văn học thời bình (sau năm 1975). Từ đó, ông nhận diện các loại hình diễn ngôn cơ bản trong những sáng tác văn chương về chiến tranh và chiến tranh cách mạng được viết từ điểm nhìn hậu chiến, đó là diễn ngôn dân tộc, diễn ngôn nhân tính, diễn ngôn sinh thái, diễn ngôn hòa giải và ước vọng "nối vòng tay lớn".

Tiểu luận "Tình yêu Tổ quốc và ý thức chủ quyền trong thơ Việt Nam viết về biển đảo" của nhà nghiên cứu Trần Khánh Thành tiếp tục cho thấy chiến tranh là một đề tài lớn của văn học Việt Nam, ngay cả khi chiến tranh đã đi qua và đất nước đang bước vào một kỷ nguyên mới. Không chỉ nhìn ra phong cách nghệ thuật độc đáo của các nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Việt Chiến… ở mảng thơ về biển đảo, nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh nét chung, thống nhất giữa các cây bút trên là tình yêu tha thiết với Tổ quốc và ý thức khẳng định chủ quyền biển đảo của dân tộc Việt Nam.

Nếu phần 1 của "Ánh xạ chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại" phác dựng những đặc điểm chính và các khuynh hướng nổi bật của văn học Việt Nam hiện đại về đề tài chiến tranh thì 9 tiểu luận trong phần 2 và phần 3 là những nghiên cứu sâu về các trường hợp cụ thể của mảng văn học này.

Hầu hết những đối tượng được lựa chọn để phân tích ở hai phần đều là những tác phẩm nổi tiếng, được xem là đại diện tiêu biểu cho mảng văn học viết về chiến tranh nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung, và do vậy, đều đã thu hút sự quan tâm, thảo luận của nhiều nhà nghiên cứu-phê bình, chẳng hạn "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Ăn mày dĩ vãng" của Chu Lai, "Người sót lại của Rừng Cười" của Võ Thị Hảo, "Mình và họ" của Nguyễn Bình Phương…

Tuy nhiên, khi được các nhà nghiên cứu Đỗ Hải Ninh, Lê Thị Hương Thủy, Trịnh Đặng Nguyên Hương, Hồ Khánh Vân, Đỗ Thị Thu Huyền, Nguyễn Minh Huệ, Đào Thị Hải Thanh, Đặng Thị Thái Hà và Vũ Thị Kiều Chinh soi chiếu dưới ánh sáng của những lý thuyết mới, những hướng tiếp cận mới như phê bình sinh thái, phê bình chấn thương, nghiên cứu ký ức, nghiên cứu giới…, những tác phẩm này trở nên đa nghĩa hơn và những thông điệp mà các nhà văn đặt ra trong tác phẩm cũng trở nên sâu sắc và ám ảnh hơn.

Tiểu luận "Chiến tranh - Tính lịch sử của tình huống sinh thái: Trường hợp Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi)" của Trịnh Đặng Nguyên Hương là một ví dụ. Trước nay, tiểu thuyết Đất rừng phương Nam vẫn được chú ý với tư cách một tác phẩm kinh điển viết về chiến tranh dành cho lứa tuổi thiếu nhi khi nhà văn Đoàn Giỏi thông qua câu chuyện về hành trình trưởng thành của cậu bé An đã phản ánh hành trình mưu sinh và con đường tham gia chiến đấu của người dân Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tiếp cận tiểu thuyết này từ lý thuyết phê bình sinh thái, Trịnh Đặng Nguyên Hương tìm thấy trong câu chuyện của Đoàn Giỏi tư tưởng đề cao vai trò của Mẹ thiên nhiên qua cách nhà văn khắc họa khu rừng như là “nơi duy nhất giúp con người bảo tồn sự sống, bảo tồn phẩm giá và chữa lành những vết thương tinh thần của mình” trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh.

Tương tự, bằng lý thuyết về "cái túi" mà học giả Ursula K. Le Guin nêu trong tiểu luận "The Carrier Bag Theory of Fiction", Đặng Thị Thái Hà đã đọc ra những hàm nghĩa mới trong các truyện ngắn và truyện vừa đã trở nên quen thuộc với độc giả của nhà văn Lê Minh Khuê như Những ngôi sao xa xôi hay Cuộc chơi. Các tác phẩm này, theo Đặng Thị Thái Hà, là những câu chuyện về đạo đức của sự ôm mang và chăm sóc, là những tiếng nói vượt ra bên ngoài cấu trúc tự sự nhị nguyên để chất vấn lại chiến tranh một cách tha thiết và kiên quyết qua góc nhìn của người nữ.

Cũng như thế, trong tiểu luận "Ghi nhớ chiến tranh như một thực hành giới: Trường hợp Mình và họ (Nguyễn Bình Phương) và Xác phàm (Nguyễn Đình Tú)", tác giả Vũ Thị Kiều Chinh đã đặt các phạm trù "ghi nhớ", "chiến tranh" và "giới" bên cạnh nhau để nới rộng khả năng diễn giải đối với hai tự sự đã gây được tiếng vang trên văn đàn của Nguyễn Bình Phương và Nguyễn Đình Tú.

Không xem xét hai tiểu thuyết này từ phản ánh luận để truy tìm một sự thực lịch sử nào đó, Vũ Thị Kiều Chinh coi đây là những đại diện tiêu biểu cho "chính trị của ký ức" (politics of memory), nghĩa là không có một ký ức hoàn toàn xác thực mà bản thân ký ức luôn có những điểm mù và khoảng trống, và việc một cuộc chiến trong quá khứ được ghi nhớ và kể lại như thế nào ở thời điểm hiện tại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố giới.

"Mình và họ" của Nguyễn Bình Phương và "Xác phàm" của Nguyễn Đình Tú, qua cách phân tích mới mẻ và hấp dẫn của Vũ Thị Kiều Chinh, trở thành "sự triển khai cấu trúc quyền lực nam quyền lên chính thực hành ghi nhớ về cuộc chiến mà ở đó, tự sự về chiến tranh biên giới phía Bắc luôn là đối tượng bị quan sát, được viết về, được cất tiếng thay bởi những người nam".

Cùng với nhau, 14 tiểu luận trong cuốn sách "Ánh xạ chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện đại" cho thấy đề tài chiến tranh chưa bao giờ vắng bóng trong văn học Việt Nam, đồng thời còn là những tiếng nói đối thoại và gợi ra nhiều vấn đề đáng suy ngẫm cho cả người viết lẫn người đọc như nên viết/ kể như thế nào về chiến tranh, những "di sản" của chiến tranh trong đời sống hiện đại, khả năng dung hòa giữa lợi ích cộng đồng và khát vọng cá nhân, phương thức chữa lành những nỗi đau thời hậu chiến, chiến tranh và nguy cơ sinh thái…

Hơn tất cả, cuốn sách nhắc nhở những cá nhân đang sống trong hòa bình về một quá khứ khốc liệt mà các thế hệ đi trước đã trải qua và đang nỗ lực kể lại, "không phải để cổ vũ cho chiến tranh mà để suy nghĩ sâu hơn về lịch sử" để "thực sự cảm nhận được hạnh phúc và thấu hiểu nghĩa lý của tồn tại" (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Điệp).

Nguồn: https://nhandan.vn/tac-pham-van-hoc-de-tai-chien-tranh-goi-suy-ngam-sau-hon-ve-lich-su-va-huong-toi-hoa-binh-post913023.html


תגובה (0)

No data
No data

באותה קטגוריה

תיירים מערביים נהנים לקנות צעצועים של פסטיבל אמצע הסתיו ברחוב האנג מא כדי לתת לילדיהם ונכדיהם.
רחוב האנג מא זוהר בצבעי אמצע הסתיו, צעירים בודקים בהתרגשות ללא הפסקה
מסר היסטורי: קוביות עץ של פגודת וין נג'יאם - מורשת דוקומנטרית של האנושות
התפעלות משדות אנרגיית הרוח החופיים של ג'יה לאי, חבויים בעננים

מאת אותו מחבר

מוֹרֶשֶׁת

;

דְמוּת

;

עֵסֶק

;

No videos available

אירועים אקטואליים

;

מערכת פוליטית

;

מְקוֹמִי

;

מוּצָר

;