Đối mặt với các thách thức này, tại buổi tọa đàm “Bước tiến trong phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh” diễn ra tại Hà Nội ngày 3/12, nhiều GS quốc tế có mặt tại Việt Nam đã đưa ra các giải pháp mở ra những hướng điều trị mới, ít xâm lấn hơn và mang lại kết quả lâm sàng vượt trội.
Liệu pháp Phage - “vũ khí” chống lại bệnh ung thư
Tại buổi tọa đàm, nhiều tên tuổi lớn trong ngành Y sinh thế giới đã bàn đến liệu pháp thực khuẩn thể, hay còn gọi là liệu pháp Phage, được nhắc đến như "vũ khí" chống lại cuộc khủng hoảng kháng kháng sinh và mở ra hy vọng mới trong điều trị ung thư.
Phage - một loại virus chuyên biệt tấn công vi khuẩn - được nhà vi khuẩn học người Anh Frederick Twort phát hiện ra vào năm 1915, sau đó được ứng dụng lâm sàng thành công lần đầu tiên trên một ca bệnh lị vào năm 1919 bởi nhà khoa học người Pháp Félix d'Hérelle. Tuy nhiên, tới thập niên 30 của thế kỷ trước, thuốc kháng sinh ra đời và phát triển nhanh chóng, Phage dần đi vào quên lãng. Chỉ đến khi tình trạng kháng kháng sinh cướp đi sinh mạng của hàng triệu người mỗi năm, giới khoa học mới tìm lại Phage với niềm hy vọng mới.

GS. Pascale Cossart, nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học tế bào đến từ Viện Pasteur Paris (Pháp).
GS. Pascale Cossart, nhà nghiên cứu tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học tế bào đến từ Viện Pasteur Paris (Pháp), thành viên Hội đồng Giải thưởng VinFuture nhận định: "Liệu pháp này đã có những tiến bộ mới trong việc điều trị nhiễm khuẩn, có thể trở thành cứu tinh khi tất cả các liệu pháp kháng sinh đều thất bại".
Ưu điểm của Phage so với kháng sinh là tấn công và tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh mà không gây hại cho tế bào người. Bên cạnh đó, mỗi loại Phage thường chỉ tiêu diệt một số chủng vi khuẩn cụ thể, giúp bảo vệ hệ vi sinh có lợi, điều mà kháng sinh phổ rộng không làm được.
Bà dẫn chứng thêm, Georgia là một trong số ít quốc gia tiên phong trong việc dùng liệu pháp thực khuẩn thể từ cả trăm năm nay. Thậm chí, liệu pháp này còn trở thành dịch vụ y tế "đắt khách", thu hút người dân châu Âu đến để được điều trị thay vì dùng kháng sinh. Hoa Kỳ cũng đang tích cực nghiên cứu về Phage với 4 trung tâm nghiên cứu lớn tại trường đại học như California, Yale, Diego, Texas.
Không dừng lại ở việc chống vi khuẩn, thực khuẩn thể đang mở ra một ứng dụng đầy hứa hẹn trong điều trị ung thư, theo nghiên cứu của GS. Chuanbin Mao từ Đại học Trung văn Hồng Kông (Trung Quốc).

GS. Chuanbin Mao từ Đại học Trung văn Hồng Kông (Trung Quốc).
Với kinh nghiệm 20 năm nghiên cứu về Phage, ông nhận định, thông qua việc biến đổi gen, Phage có thể hình thành nên một hệ thống siêu phân tử có chức năng chẩn đoán và điều trị cực kỳ tinh vi. Trong điều trị, Phage được biến đổi để mang theo các nano-enzyme, nhắm đúng tế bào ung thư, tạo ra oxy trong môi trường thiếu oxy của khối u, từ đó giúp liệu pháp quang động học hoạt động hiệu quả hơn để tiêu diệt tế bào bệnh.
GS. Chuanbin Mao cũng chỉ ra tính ưu việt của liệu pháp này là chi phí rẻ nhờ việc Phage có thể nhân bản số lượng lớn và dễ dàng điều chỉnh gen để tạo ra các Phage mới nhắm đích đặc hiệu.
Công nghệ in 3D mở đường cứu bệnh nhân ung thư xương ở Việt Nam
Những năm gần đây, y học thế giới phát triển các kỹ thuật tái tạo xương bằng implant kim loại thiết kế theo từng cá thể, nhưng chi phí quá đắt đỏ khiến phần lớn bệnh nhân không có cơ hội tiếp cận. Tại Việt Nam, việc tái tạo cấu trúc xương gần như bất khả thi trước khi công nghệ in 3D được ứng dụng.

GS. Trần Trung Dũng- diễn giả đến từ Hệ thống Y tế Vinmec, Trường Đại học VinUni (Việt Nam).
Tại Vinmec, GS Trần Trung Dũng cùng đồng đội đã thay đổi thực tế này. GS Trần Trung Dũng cho hay, ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 200 bệnh nhân được phát hiện ung thư xương. Trong đó nhiều ca bệnh ở trẻ nhỏ do người nhà “chủ quan” nên khi phát hiện ra thường đã nặng, rất khó điều trị, hoặc nếu có điều trị thì rất tốn kém.
Với nền tảng hội tụ giữa phẫu thuật chỉnh hình, công nghệ y sinh và kỹ thuật mô phỏng, nhóm của ông đã làm chủ kỹ thuật in 3D implant cá thể hóa cho các ca ung thư xương phức tạp nhất. Họ dựa vào dữ liệu hình ảnh CT, MRI của từng bệnh nhân, tạo mô hình xương ba chiều và thiết kế implant phù hợp tuyệt đối với giải phẫu người bệnh. Một trường hợp ung thư xương chậu từng buộc phải đối diện nguy cơ tàn tật vĩnh viễn.
Nhóm bác sĩ đã thu thập hình ảnh, mô phỏng cấu trúc xương bị phá hủy và thiết kế implant thay thế toàn bộ vùng tổn thương. Ca phẫu thuật kết hợp cắt u, tái tạo và cố định implant 3D thành công. Hai năm sau phẫu thuật, bệnh nhân đi lại được, chức năng vận động phục hồi tốt và không gặp biến chứng đáng kể.
Một bệnh nhân khác phải cắt bỏ gần toàn bộ xương đùi vì ung thư. Vinmec đã tái tạo toàn bộ xương đùi bằng mô hình in 3D, giúp phục hồi cấu trúc nâng đỡ của chi dưới, đảm bảo khả năng vận động lâu dài. Những ca bệnh mà trước đây bác sĩ chỉ có thể lắc đầu vì không thể tái tạo giải phẫu, nay trở thành minh chứng cho bước tiến vượt bậc của y học Việt Nam.
Chia sẻ thêm với phóng viên, GS Trần Trung Dũng cho biết, điều giúp công nghệ này thành công là mô hình “xưởng thiết kế tại chỗ”. Xưởng in 3D đặt tại VinUni cho phép kỹ sư và bác sĩ cùng làm việc ngay trong môi trường bệnh viện. Bác sĩ hiểu giải phẫu, phẫu thuật; kỹ sư hiểu vật liệu, kết cấu và mô phỏng, khi họ phối hợp theo thời gian thực, implant tạo ra có độ chính xác cao và phù hợp tối ưu với phẫu thuật.
Sự kết hợp liên ngành này đưa y học Việt Nam tiến gần hơn với các trung tâm y tế hàng đầu thế giới. Quan trọng hơn, nó giúp bệnh nhân được phục hồi đúng cấu trúc cơ thể thay vì phải chấp nhận mất mát suốt đời.
Dù là bước tiến lớn, in 3D y tế vẫn đối mặt với một rào cản lớn nhất: chi phí. Tại Mỹ và châu Âu, giá một implant in 3D phục vụ phẫu thuật tái tạo xương có thể lên tới 30.000 đến 60.000 USD. Con số này vượt xa thu nhập trung bình và khả năng chi trả của hầu hết bệnh nhân, ngay cả khi có bảo hiểm thương mại. Ở Việt Nam, việc áp dụng công nghệ này càng khó khăn hơn vì bệnh nhân gần như phải trông chờ 100% vào hỗ trợ từ quỹ từ thiện.
Nguồn: https://cand.com.vn/y-te/khi-cong-nghe-mo-duong-cho-chan-doan-va-dieu-tri-benh-the-he-moi-i790045/






Bình luận (0)