Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cũng như các nội dung đã đề cập tại 36-KL/TW của Bộ Chính trị và Quyết định số 1595/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chuyển đổi số, hiện đại hóa công tác quản lý, vận hành đập, hồ chứa thủy lợi, thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường giao, chiều 21/11, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” tại Hà Nội.
Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi phối hợp với Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước”, chiều 21/11.
Diễn đàn nhằm tạo không gian để các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp, các cấp chính quyền địa phương cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và định hướng lộ trình chuyển đổi số trong quản lý an toàn đập, hồ chứa nước với 3 trụ cột chiến lược: bảo đảm tuyệt đối an toàn công trình trong điều kiện bất lợi của thời tiết, cắt giảm lũ hiệu quả cho vùng hạ du, và cấp nước hiệu quả, đa mục tiêu.
Lãnh đạo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi và Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường chủ trì phiên thảo luận trong khuôn khổ Diễn đàn.
Diễn đàn có sự tham dự của đại biểu đến từ các đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các viện, trường, trung tâm; đại diện các Bộ, ngành Trung ương, đối tác quốc tế, khoảng 30 cơ quan báo chí và đại diện từ địa phương như Sở Nông nghiệp và Môi trường, Chi cục Thủy lợi, đơn vị quản lý hồ chứa lớn, cùng UBND các xã có đập, hồ chứa trên địa bàn. Các doanh nghiệp công nghệ như WeatherPlus, Vrain và đại diện các hội nghề nghiệp (Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, Hội Thủy lợi, Hội Tưới tiêu…) sẽ trình bày kinh nghiệm và đề xuất giải pháp.
Diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” được tổ chức tại Hà Nội, theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, chiều 21/11.
Các chuyên gia, nhà chính sách, doanh nghiệp sẽ chia sẻ các tham luận xoay quanh thực tế ứng dụng công nghệ và cơ sở dữ liệu trong hỗ trợ vận hành công trình thủy lợi; mô hình quản lý - vận hành thông minh theo lưu vực; dịch vụ dữ liệu và giải pháp bảo đảm an toàn hồ chứa trong mùa mưa lũ; xây dựng cơ sở dữ liệu đánh giá nhanh rủi ro đập vừa và nhỏ theo phương pháp DRAPT trong khuôn khổ Dự án An toàn đập Việt Nam - New Zealand.
Rất đông đại biểu, diễn giả, phóng viên các cơ quan báo chí có mặt tại đầu cầu trực tiếp của Diễn đàn "Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước", chiều 21/11.
Ngoài ra, diễn đàn sẽ thảo luận nội dung về kinh nghiệm vận hành điều tiết lũ và các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước.
Tất cảTổng thuật
17h30
Không mua thiết bị mà mua giải pháp, tập trung dịch vụ dữ liệu
Kết thúc Diễn đàn, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhấn mạnh bối cảnh thời tiết năm nay “dị thường và cực đoan” với chuỗi bão số 5, 9, 10, 11 di chuyển rất nhanh, quỹ đạo khác hẳn quy luật nhiều năm, mưa lớn, mưa cực đoan lặp đi lặp lại, nhiều nơi ghi nhận giá trị “lịch sử”. Ngay cả ĐBSCL cũng xuất hiện hiện tượng thủy triều bất thường.
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), phát biểu kết thúc Diễn đàn.
Trong bối cảnh đó, câu chuyện quản lý, vận hành an toàn đập, hồ chứa đứng trước yêu cầu hoàn toàn mới. Theo ông Phong, Diễn đàn lần này nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 57 về chuyển đổi số và nhiệm vụ bảo đảm an toàn đập, hồ chứa.
Về kết quả, hệ thống hồ chứa thủy lợi trong hai năm qua cơ bản tuân thủ quy trình vận hành, nhiều hồ như Cấm Sơn, Núi Cốc, Tả Trạch… đã phát huy tốt vai trò cắt giảm lũ, có hồ giảm tới hàng chục phần trăm lưu lượng xả so với lưu lượng về hồ, góp phần quan trọng bảo vệ hạ du.
Tuy vậy, hiệu quả cắt lũ nhìn tổng thể “vẫn chưa đạt kỳ vọng”, nhất là với những hồ chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết, hoặc những hồ chưa chủ động hạ mực nước đón lũ do thiếu tự tin về dự báo. Ông chỉ rõ một loạt vấn đề mang tính căn cơ.
Thứ nhất, nhiều quy trình vận hành hồ đơn và liên hồ hiện nay được xây dựng trên chuỗi số liệu lịch sử cũ, chưa phản ánh các giá trị cực trị mới trong 2-3 năm gần đây, khi mưa có thể gấp 4-6 lần trung bình tháng và lũ vượt xa các kỷ lục trước đó. Điều này đòi hỏi phải xem xét lại cách xác định tần suất, xác suất thiết kế, cả trong quy hoạch, thiết kế công trình lẫn trong xây dựng, điều chỉnh quy trình vận hành.
Thứ hai, quy trình hiện hành còn nặng tính “ổn định”, trong khi thực tế số liệu mưa, lũ biến động rất nhanh, yêu cầu cách tiếp cận vận hành linh hoạt hơn, nhưng vẫn phải ưu tiên an toàn hạ du theo đúng chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Về định hướng, ông Phong cho rằng cần chuyển mạnh sang tiếp cận “quản lý rủi ro và quản trị rủi ro”, quản lý thống nhất theo lưu vực và liên lưu vực sông, thay vì chỉ nhìn từng hồ hay từng ngành. Các giải pháp phải kết hợp cả “phần cứng” và “phần mềm”: vừa cải tạo, nâng cấp công trình phù hợp với yêu cầu mới, vừa đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, dữ liệu và mô hình dự báo. Nhiệm vụ của hồ chứa phải được xác định rõ là đa mục tiêu: cắt giảm lũ và đảm bảo an toàn công trình, bảo vệ hạ du, đồng thời cấp nước cho dân sinh, sản xuất.
Từ đó, cần nghiên cứu nâng dung tích phòng lũ ở nhiều hồ bằng cách xem xét sử dụng linh hoạt khoảng chênh giữa mực nước dâng bình thường và mực nước lũ thiết kế, thay vì chỉ “giữ an toàn” theo cách cũ.
Liên quan đến nội dung chuyển đổi số, Cục đã gắn mã định danh cho khoảng một nửa trong số hơn 86.000 công trình, đang phối hợp để hoàn thiện chuẩn cơ sở dữ liệu ngành, trước hết là với các hồ chứa. Định hướng tới đây là xây dựng một cơ sở dữ liệu dùng chung, với định dạng thống nhất, các địa phương cùng cập nhật, và một phần mềm hỗ trợ ra quyết định dùng chung cho quản lý, vận hành hồ chứa.
Nhà nước sẽ hạn chế đầu tư dàn trải vào cảm biến, trạm đo, SCADA; thay vào đó, sẽ “mua dịch vụ” dữ liệu và dịch vụ hỗ trợ ra quyết định từ doanh nghiệp công nghệ, đúng tinh thần xã hội hóa chuyển đổi số: không mua thiết bị, mà mua giải pháp.
Cùng với đó, ông yêu cầu phải nâng cao năng lực dự báo - cảnh báo, kết nối và khai thác hiệu quả dữ liệu từ các hệ thống như Vrain, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ dự báo, các mô hình mưa - dòng chảy và thủy lực. Mục tiêu là từng bước chuyển từ “dự báo” sang mức độ “thông báo đủ tin cậy” để đơn vị vận hành có thể mạnh dạn hạ mực nước hồ đón lũ, tận dụng tối đa dung tích phòng lũ nhưng vẫn an toàn.
Về thể chế, ông Phong cho biết, Bộ dự kiến sẽ trình Quốc hội sửa đổi Luật Thủy lợi vào giai đoạn 2027-2028 và xem xét sửa đổi, thay thế Nghị định 114 sau khi tổng kết đầy đủ những diễn biến cực đoan vừa qua. Những vấn đề như cơ chế điều chỉnh mực nước trước lũ, vận hành linh hoạt, nâng dung tích phòng lũ, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu và phần mềm dùng chung sẽ được nghiên cứu đưa vào các văn bản này.
Trên cơ sở những ý kiến tại Diễn đàn, Cục sẽ tổng hợp, sắp xếp thành kế hoạch cụ thể để tham mưu lãnh đạo Bộ chỉ đạo trong thời gian tới, với mục tiêu là khi ngồi lại sau vài năm nữa, có thể nhìn thấy rõ những bước tiến trong bảo đảm an toàn đập, hồ chứa và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.
17h10
Gắn mã định danh cho từng công trình thủy lợi
Theo ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), trong kỷ nguyên số, việc ứng dụng công nghệ thông tin không đồng nghĩa với chuyển đổi số, nhưng chuyển đổi số bắt buộc phải dựa trên công nghệ thông tin. Đối với các công trình thủy lợi, hồ đập, mỗi công trình cần được gắn mã định danh riêng để quản lý chặt chẽ, minh bạch.
Ông Đặng Duy Hiển, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Việc chuyển đổi số phải bắt đầu từ số hóa dữ liệu hiện hữu, đảm bảo các thông tin phải đúng, đủ, sạch, sống và thống nhất, lấy trực tiếp từ nguồn, tránh dữ liệu sai lệch hoặc không chính xác. Khi có dữ liệu chuẩn và đầy đủ, hệ thống quản lý sẽ giúp giám sát, vận hành và điều phối hồ đập theo thời gian thực, hỗ trợ dự báo lũ, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du, tối ưu khai thác nước tưới, nước sinh hoạt và thủy điện.
Chuyển đổi số còn giúp tăng cường phối hợp liên hồ, liên ngành, nâng cao khả năng ra quyết định dựa trên dữ liệu và giảm thiểu chi phí, rủi ro vận hành. Theo ông Hiển, điều quan trọng là các cơ quan quản lý cùng bắt tay triển khai đồng bộ, đưa công trình thủy lợi bước vào kỷ nguyên số để quản lý thông minh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu an toàn và phát triển bền vững.
17h05
Phải có sự quản lý thống nhất về có sở dữ liệu, định mức kinh tế - kỹ thuật
PGS. TS Hoàng Thái Đại, đại diện Hội Thủy lợi Việt Nam nhận định rằng năng lực của đội ngũ kỹ sư, chuyên gia Việt Nam hoàn toàn không thua kém các nước phát triển. Ông cho biết nhiều cán bộ ngành thủy lợi đã được đào tạo ở nước ngoài, nắm vững công nghệ hiện đại và thậm chí có thể giảng dạy lại cho chính các đối tác quốc tế. Điều này khẳng định Việt Nam có đủ nguồn lực chất lượng cao để làm chủ các công nghệ tính toán, mô phỏng và vận hành trong lĩnh vực tài nguyên nước và hồ đập.
PGS. TS Hoàng Thái Đại.
Ông Đại chia sẻ một trăn trở đã kéo dài nhiều năm: công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trước đây bị phân tán giữa nhiều cơ quan, dẫn đến chồng chéo và thiếu thống nhất. Việc sáp nhập và kiện toàn mô hình quản lý hiện nay, nhất là khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã được hợp nhất, là tín hiệu rất tích cực, vì đây là điều kiện để thống nhất từ chính sách, cơ sở dữ liệu đến hệ thống hạ tầng quan trắc.
Ông nhấn mạnh, công nghệ hiện nay rất phát triển, phần mềm tốt, thiết bị hiện đại, nhưng dữ liệu vẫn là “tài sản cốt lõi” và đang là điểm yếu nhất. Dữ liệu quan trắc, đặc biệt là dữ liệu từ mạng quan trắc KTTV quốc gia và mạng trạm của các công ty thủy lợi, vẫn còn phân tán, chưa được chuẩn hóa hoặc liên thông.
Tình trạng phân bố trạm “nơi dày đặc, nơi thưa thớt”, như đại diện doanh nghiệp đã nêu, là vấn đề nhìn thấy rõ nhưng chưa được xử lý triệt để. Muốn sử dụng công nghệ hiệu quả, theo ông, trước hết phải giải quyết vấn đề dữ liệu và hạ tầng quan trắc.
PGS.TS Hoàng Thái Đại cho rằng dù thiết bị hay phần mềm tiên tiến đến đâu thì vai trò của quản lý nhà nước vẫn là yếu tố quyết định. Nhà nước phải đứng ra điều phối, thống nhất quản lý tài nguyên nước và hệ thống hồ đập từ Trung ương đến địa phương; ban hành các quy chuẩn, quy trình, định mức kinh tế - kỹ thuật; đồng thời tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ đủ năng lực vận hành công nghệ mới. Đào tạo nhân lực chất lượng cao không chỉ dành cho cơ quan quản lý mà còn cho các doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi và các đơn vị vận hành ở địa phương.
Ông Đại nhắc lại bài học về những xung đột vận hành giữa thủy điện và thủy lợi giai đoạn trước, khi hai ngành hoạt động tách rời, mỗi bên có một mục tiêu. Theo ông, trong bối cảnh mới, khi Bộ Nông nghiệp và Môi trường thống nhất quản lý tài nguyên nước và công trình thủy lợi, cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng để xử lý các vấn đề liên ngành. Ông cho rằng chỉ khi có cơ quan điều phối thống nhất, kết hợp với dữ liệu đầy đủ và hạ tầng quan trắc đồng bộ thì các chính sách vận hành liên hồ mới đi vào thực chất.
PGS.TS Hoàng Thái Đại đánh giá cao việc các cơ quan quản lý, địa phương và doanh nghiệp cùng ngồi lại thảo luận. Những hội nghị như thế này, theo ông, giúp “xới lên” vấn đề, nhìn rõ thực trạng hơn và quan trọng nhất là tạo nền tảng để cùng nghiên cứu, cùng đề xuất giải pháp với Bộ và Chính phủ nhằm hoàn thiện công tác quản lý, đảm bảo an toàn đập và vận hành hồ chứa trong thời gian tới.
16h50
Gợi mở nhiều chương trình hợp tác giữa Việt Nam - Hà Lan trong quản lý hồ đập
Bà Phạm Minh Uyên, chuyên gia tư vấn chính sách cao cấp tại Đại sứ quán Hà Lan tại Việt Nam, chia sẻ, mục đích tham dự Diễn đàn là học hỏi và gợi mở các hướng hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan về thích ứng biến đổi khí hậu trong tương lai.
Bà Phạm Minh Uyên, chuyên gia tư vấn chính sách cao cấp tại Đại sứ quán Hà Lan tại Việt Nam.
Bà Uyên nhấn mạnh, các chuyên gia người Hà Lan vừa hợp tác, vừa học hỏi từ kinh nghiệm của Việt Nam, sẵn sàng chia sẻ các kiến thức về ứng dụng khoa học công nghệ, trí tuệ nhân tạo, big data và phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, họ sẵn sàng triển khai các chương trình kết nối viện nghiên cứu và trường đại học của Hà Lan với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực an toàn hồ đập, nhằm nâng cao năng lực chuyên môn của cả hai bên.
Theo đại diện Đại sứ quán Hà Lan, hợp tác không chỉ là chuyển giao công nghệ từ Hà Lan sang Việt Nam mà còn là quá trình học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm song phương, tạo nền tảng phát triển bền vững cho cả hai nước.
16h40
Cần có cơ quan đầu mối đứng ra kiểm soát, chuẩn hóa và phân phối dữ liệu
Đại diện Công ty WATEC nhấn mạnh rằng vận hành an toàn hồ đập trong điều kiện mưa bão cực đoan hiện nay phụ thuộc vào 3 yếu tố nền tảng, gồm mật độ trạm đo mưa trên lưu vực, chất lượng dữ liệu thu được từ các trạm và khả năng tổng hợp - phân tích thông tin của phần mềm hỗ trợ. Nếu thiếu một trong ba yếu tố này, việc vận hành sẽ không thể đạt hiệu quả, bởi dữ liệu đầu vào thiếu chính xác sẽ khiến các mô hình dự báo và kịch bản vận hành mất đi độ tin cậy.
Đại diện Công ty WATEC.
Theo WATEC, mặc dù số lượng trạm cao, việc phân bổ chưa đồng đều khiến nhiều khu vực có mật độ trạm quá dày, trong khi những vùng khác lại thiếu thiết bị, dẫn đến dữ liệu không phản ánh chính xác diễn biến mưa trên từng lưu vực.
Đại diện Công ty WATEC cho biết, phần mềm của công ty đã tổng hợp và chia sẻ dữ liệu miễn phí cho Cục Thủy lợi, Tổng cục Phòng chống thiên tai và Tổng cục Khí tượng Thủy văn, nhằm hỗ trợ công tác vận hành hồ đập và phòng chống thiên tai.
Tuy nhiên, để sử dụng dữ liệu hiệu quả, cần có một cơ quan đầu mối đứng ra kiểm soát, chuẩn hóa và phân phối dữ liệu từ các trạm. WATEC sẵn sàng phối hợp khi các Chi cục tiếp tục là đơn vị lắp đặt, còn công ty cung cấp dữ liệu cho cơ quan đầu mối do Cục Thủy lợi chỉ định quản lý.
Điều quan trọng đại diện này là Cục cần cung cấp tọa độ và phương án phân vùng lưu vực rõ ràng để doanh nghiệp có thể bố trí trạm phù hợp, tránh trùng lặp, đồng thời đảm bảo khoảng cách giữa các trạm đem lại hiệu quả quan trắc tối ưu.
Ông cũng nêu trở ngại lớn là tâm lý e ngại của nhiều đơn vị thủy lợi; khi tiếp nhận trạm, họ phải thực hiện bảo trì hàng năm và kiểm định định kỳ, trong khi đây là khoản chi phí chưa được quy định rõ trong định mức. Một số đơn vị còn lo ngại rằng khi thiết bị hỏng phải chờ thay thế từ nhà sản xuất nước ngoài sẽ gây gián đoạn hệ thống.
Ông khẳng định quan điểm của WATEC là luôn sẵn sàng hợp tác và cung cấp dữ liệu đầy đủ, nhưng điều cần thiết nhất lúc này là một khung thể chế thống nhất để tránh đầu tư manh mún và trùng lặp, đồng thời bảo đảm các doanh nghiệp, cơ quan quản lý và đơn vị vận hành hồ đập có thể sử dụng chung một nguồn dữ liệu chính xác, liên tục và đáng tin cậy.
16h30
Bắc Ninh mong muốn được đầu tư cho quản lý, vận hành các hồ đập
Theo ông Vũ Bá Thành, Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Sông Thương, việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào quản lý và vận hành công trình thủy lợi trên địa bàn Bắc Ninh thời gian qua đã mang lại những kết quả tích cực, đặc biệt trong các đợt mưa bão dồn dập năm 2024.
Ông Vũ Bá Thành, Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Sông Thương.
Công ty đã lắp đặt các thiết bị chuyên dùng, kết hợp phần mềm tính toán và hệ thống quan trắc, giúp theo dõi mưa lũ, mực nước hồ, lưu lượng về - xả và trạng thái công trình, từ đó hỗ trợ điều tiết vận hành hiệu quả, giảm rủi ro cho hạ du vùng sông Thương. Nhờ đó, dù mực nước trên sông Thương nhiều thời điểm vượt báo động, các hồ như Cấm Sơn và Khuôn Thần vẫn vận hành an toàn.
Tuy vậy, công tác ứng dụng công nghệ vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Nhiều thiết bị quan trắc lắp đặt ngoài công trình đã cũ, hoạt động không ổn định. Camera dễ hỏng khi mưa lũ, sét đánh. Các trạm đo mưa, đo mực nước, đo lưu lượng đôi khi mất tín hiệu do thời tiết xấu. Hệ thống dữ liệu hiện có chưa đầy đủ, thiếu liên thông. Dữ liệu phần mềm còn rời rạc, chưa khoa học, gây khó khăn trong việc trích xuất và tổng hợp phục vụ quản lý.
Một khó khăn lớn khác là thiếu kinh phí duy tu - bảo trì. Chi phí vận hành thiết bị chuyên dùng, sửa chữa hỏng hóc, thay thế linh kiện, quản lý mạng lưới quan trắc và phần mềm đều chưa có định mức rõ ràng, trong khi nguồn tài chính của Công ty còn hạn chế. Một số thiết bị chuyên dụng, đặc biệt là thiết bị nhập khẩu, khi hỏng phải chờ thay thế lâu, ảnh hưởng đến khả năng giám sát thời gian thực. Công ty cũng đang phải nhập dữ liệu lên 2 hệ thống là hệ thống cơ sở dữ liệu ngành thủy lợi (thuyloivietnam.vn) và hệ thống của Cục Quản lý tài nguyên nước, dẫn đến chồng chéo, mất thời gian.
Ông Vũ Bá Thành thông tin hiện chỉ có 3 hồ chứa là Cấm Sơn, Khuôn Thần, Suối Nứa và 1 đập dâng Cầu Sơn được tích hợp dữ liệu lên hệ thống cơ sở dữ liệu ngành, trong khi các hồ khác chưa được đầu tư trang thiết bị quan trắc đồng bộ.
Công ty mong muốn được bổ sung thiết bị cho 28 hồ, đập còn lại. Công ty cũng đang hoàn thiện báo cáo đề xuất đề án cải tạo - nâng cấp công tác quản lý vận hành công trình thủy lợi giai đoạn 2026-2030, trình Sở Nông nghiệp và Môi trường, UBND tỉnh Bắc Ninh, Cục Quản lý Xây dựng công trình thủy lợi và Bộ Nông nghiệp - Môi trường xem xét.
Ông Thành cho biết, các hồ chứa của vùng miền núi Bắc Ninh thường phải chịu rủi ro cao khi mưa lớn gây ngập úng, sạt lở, hoặc làm mất đường giao thông khiến việc kiểm tra, quan trắc bị gián đoạn. Vì vậy, cần có giải pháp đồng bộ để nâng cao hiệu quả công nghệ trong quản lý - vận hành.
Từ thực tế trên, đại diện Công ty kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường quan tâm đầu tư đồng bộ trang thiết bị chuyên dụng cho các hồ chứa còn lại. Đồng thời xây dựng định mức kinh tế - kỹ thuật cho công tác duy trì hệ thống quan trắc, phần mềm, camera và thiết bị hiện trường. Tích hợp dữ liệu vào một hệ thống dùng chung, tránh việc phải nhập liệu vào nhiều phần mềm khác nhau. Hỗ trợ Công ty xây dựng trung tâm quản lý - điều hành tập trung, đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại.
“Công ty sẽ tiếp tục ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số để nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo an toàn đập - hồ chứa, an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương”, ông Vũ Bá Thành cam kết.
16h15
Quảng Ninh đề xuất hoàn thiện định mức kinh phí cho vận hành hồ đập
Đại diện Công ty TNHH MTV Thủy lợi Yên Lập cho biết, tỉnh Quảng Ninh hiện có ba công ty quản lý thủy lợi, nhưng theo kế hoạch của UBND tỉnh, từ tháng 12 sẽ sáp nhập còn một đơn vị duy nhất, tiếp nhận quản lý 16 hồ chứa, trong đó có 2 hồ lớn có cửa van điều tiết lũ. Ba hồ lớn gồm hồ Yên Lập, hồ Cao Vân và hồ Khe Giữa hiện đã có thiết bị quan trắc tự động, song phần lớn hệ thống này là công nghệ cũ thuộc dự án WB3 triển khai giai đoạn 2008-2009.
Đại diện Công ty TNHH MTV Thủy lợi Yên Lập.
Đại diện đơn vị cho biết hệ thống SCADA và các thiết bị quan trắc được lắp đặt từ nhiều năm trước hiện đã xuống cấp, trong khi kinh phí duy trì không nằm trong định mức kỹ thuật được giao, dẫn đến việc bảo trì - vận hành gặp khó khăn. Nhu cầu nâng cấp thiết bị, hoàn thiện hệ thống quan trắc tự động và xây dựng cơ sở dữ liệu vận hành ngày càng trở nên cấp thiết, nhất là trong bối cảnh thời tiết cực đoan gia tăng.
Về vận hành, đại diện công ty cho biết Quảng Ninh có ưu thế là các hồ nằm gần cửa sông, thuận lợi cho việc điều tiết. Trong cơn bão Yagi vừa qua, các hồ trong hệ thống đã chủ động cắt lũ, bảo đảm an toàn công trình và hạ du. Riêng với những hồ chứa có nguy cơ rủi ro cao cho hơn 1.000 dân phía dưới, tỉnh đã xây dựng mô hình đập tự vỡ (Fuse Plug) theo khuôn khổ dự án WB3, nhằm bảo đảm an toàn trong tình huống hồ không thể tự giảm lũ theo quy trình vận hành.
Công ty đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường xem xét, ban hành khung định mức kinh tế - kỹ thuật mới, trong đó tách bạch phần kinh phí dành cho duy tu hệ thống quan trắc và hạ tầng công nghệ. Đây là cơ sở để doanh nghiệp quản lý hồ chứa có đủ nguồn lực duy trì vận hành an toàn, đặc biệt khi sắp tới sẽ tiếp nhận toàn bộ hệ thống hồ đập theo đặt hàng của UBND tỉnh.
16h00
Cao Bằng đề xuất hoàn thiện quy định và tăng hỗ trợ kỹ thuật cho an toàn hồ đập
Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường Cao Bằng cho biết, toàn tỉnh hiện có 23 hồ, đập thủy lợi, được phân cấp theo quy định gồm 16 hồ lớn, 2 hồ vừa và 5 hồ nhỏ. Tổng dung tích toàn hệ thống khoảng 20 triệu m³, trong đó hồ lớn nhất đạt gần 37 triệu m³. Do đặc thù địa hình miền núi, nhiều hồ có đập cao nên đều được xếp vào nhóm công trình lớn thuộc diện phải quản lý chặt chẽ về an toàn.
Đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường Cao Bằng.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực tế tại địa phương còn nhiều hạn chế. Đến nay, mới 13/18 hồ lớn và vừa được UBND tỉnh phê duyệt quy trình vận hành. Công tác quan trắc còn rất mỏng, toàn tỉnh hiện chỉ có khoảng 1-2 điểm quan trắc chủ động, trong khi không có công trình nào được bố trí trong mạng lưới khí tượng thủy văn quốc gia. Một số hồ xây dựng từ nhiều thập niên trước do hợp tác xã tự thi công, không có hồ sơ thiết kế kỹ thuật, khiến việc đánh giá an toàn và vận hành gặp nhiều khó khăn.
Trong các đợt bão Yagi, bão số 10 và số 11 vừa qua, một số hồ chứa trên địa bàn đã xuất hiện hiện tượng xuống cấp, dù không nghiệm trọng những cũng gây hoang mang cho người dân khu vực hạ du. Tỉnh cho rằng đây là tín hiệu cảnh báo về nhu cầu đầu tư, sửa chữa và tăng cường giám sát an toàn hồ đập trong bối cảnh thời tiết ngày càng cực đoan.
Đại diện Sở đề xuất Bộ và Cục sớm thể chế hóa các quy định chi tiết, đặc biệt là quy định về kinh phí cho công tác kiểm định, sửa chữa và bảo trì, nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống công trình. Cao Bằng cũng kiến nghị nâng cấp hạ tầng công nghệ, vì phần lớn công trình hiện vẫn được vận hành thủ công; đồng thời mong muốn được hỗ trợ để ứng dụng khoa học – công nghệ trong quản lý.
Tỉnh bày tỏ nguyện vọng được tham gia các dự án an toàn hồ đập do WB tài trợ và tiếp cận các công cụ hỗ trợ vận hành hiện đại, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác và bảo đảm an toàn công trình trong thời gian tới.
15h45
Hệ thống khí tượng thủy văn và quan trắc lượng mưa giúp hồ Cửa Đạt cắt lũ hiệu quả
Theo ông Lê Bá Huân, Trưởng Phòng Quản lý thi công, phụ trách chi nhánh Cửa Đạt (Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng thuỷ lợi 3, Bộ Nông nghiệp và Môi trường), thực tiễn vận hành hồ Cửa Đạt trong nhiều trận lũ lớn cho thấy bài học quan trọng nhất là phải chủ động, kỷ luật và dựa trên khoa học.
Ông Lê Bá Huân, Trưởng Phòng Quản lý thi công, phụ trách chi nhánh Cửa Đạt (Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng thuỷ lợi 3, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Việc ứng phó với bão, áp thấp nhiệt đới chỉ hiệu quả khi tuân thủ nghiêm các phương án đã được phê duyệt và thực hiện đúng Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Mã. Trong đó, dự báo thủy văn và nguồn nước luôn là “chìa khóa” quyết định khả năng cắt lũ an toàn.
Thời gian dự báo tối ưu phải kéo dài khoảng 5 ngày, tính từ khi có tin bão hoặc áp thấp nhiệt đới, với đầy đủ thông tin về tổng lượng lũ đến và thời điểm xuất hiện đỉnh lũ. Những năm trước, khi chưa có công nghệ, cán bộ phải trực đo thủ công trong mưa gió, trèo đèo lội suối tới các trạm thủy văn trong nhiều tháng, vừa vất vả, vừa nguy hiểm. Việc dự báo lũ khi đó chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên thiếu kịp thời và không theo sát diễn biến thực tế.
Những năm gần đây, hồ Cửa Đạt đã thay đổi căn bản cách thức quản lý. Hệ thống quan trắc mực nước và lượng mưa tự động được lắp đặt; phần mềm dự báo và hỗ trợ điều tiết lũ do Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam phát triển được đưa vào sử dụng; dự báo khí tượng được cập nhật liên tục từ các mô hình toàn cầu như ECMWF, GFS, ICON thông qua nền tảng Windy. Nhờ đó, công tác dự báo đạt độ tin cậy cao hơn, giúp điều hành hồ chủ động và hiệu quả hơn trong từng tình huống.
“Tuy nhiên, hiện các đơn vị quản lý công trình vẫn gặp vướng mắc trong ký hợp đồng thuê phần mềm, dịch vụ kiểm định thiết bị quan trắc do thiếu cơ chế đơn giá, định mức cụ thể. Do đó đơn vị kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường sớm ban hành quy định để tháo gỡ điểm nghẽn này”, ông Lê Bá Huân đề xuất.
Trên cơ sở dự báo tin cậy, hồ Cửa Đạt đã chủ động xả đón lũ trong nhiều đợt bão lớn. Với bão số 3, hồ cắt được 530 triệu m³, giảm 3.546 m³/s đỉnh lũ. Với bão số 5, việc xả trước khi bão tới đã tạo thêm 192 triệu m³ dung tích cắt lũ; khi bão đổ bộ, hồ tiếp tục cắt 219 triệu m³, giảm hơn 3.000 m³/s đỉnh lũ. Tương tự, trước bão số 10, hồ đã chủ động hạ gần 4,3 m mực nước, tạo thêm 116 triệu m³ dung tích chứa; khi bão đến, hồ cắt tiếp 145 triệu m³, giảm gần 4.000 m³/s đỉnh lũ.
Trong quá trình vận hành, đơn vị quản lý đã duy trì trao đổi liên tục với các đơn vị quản lý công trình trên lưu vực sông Chu, cơ quan khí tượng thủy văn, chính quyền địa phương và lực lượng phòng chống thiên tai để cập nhật mực nước, lưu lượng lũ, tình hình ngập hạ du và thủy triều. Việc cung cấp thông tin kịp thời cho báo chí cũng giúp người dân chủ động ứng phó, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản.
Thực tế cho thấy hồ Cửa Đạt vẫn còn dư địa lớn về dung tích phòng lũ, đặc biệt từ cao trình +110,0 m trở lên. Do đó Ban 3 đề nghị tỉnh Thanh Hóa xem xét cho phép sử dụng linh hoạt phần dung tích này, tương ứng 257,2 triệu m³, nhằm nâng cao khả năng cắt lũ và giảm thiệt hại tối đa cho hạ du trong những tình huống mưa lũ cực đoan ngày càng gia tăng.
15h30
Cần đổi mới cách vận hành hồ chứa và tăng phối hợp thủy lợi - thủy điện
Sau giờ giải lao, Diễn đàn tiến hành phiên thảo luận. Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho rằng, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ.
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Ông Phong nêu câu hỏi trọng tâm: Liệu có nên duy trì mực nước hồ ở mức dâng bình thường như quy trình hiện hành, hay cần hạ thấp hơn để tăng dung tích đón lũ trong bối cảnh thời tiết ngày càng bất thường?
Theo ông, quyết định mực nước trước lũ phải dựa trên cơ sở khoa học vì nó liên quan trực tiếp đến an toàn công trình, an toàn hạ du và nhu cầu tích nước cho sản xuất. Thực tế các trận lũ gần đây cho thấy khoảng dung tích phòng lũ đang không đủ dư địa như trước.
Nhấn mạnh vai trò của dự báo, ông Phong cho rằng, hiện nhiều đơn vị vẫn phụ thuộc vào các mô hình dự báo quốc tế, trong khi các nhà khoa học đã khuyến cáo cần có mô hình dự báo chuyên dụng cho từng lưu vực hồ chứa. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng cao độ chính xác của dự báo trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm cho mưa lũ khó lường hơn và dễ vượt ra ngoài các thông số thiết kế cũ.
Đề cập đến dung tích và khả năng phối hợp liên hồ, ông cho biết tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m³, trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn “lịch sử”.
Ông Phong nhấn mạnh hồ chứa ngày nay là công trình đa mục tiêu: vừa đảm bảo an toàn công trình, an toàn hạ du, vừa duy trì cấp nước cho sản xuất - sinh hoạt và phục vụ phát điện. Vì vậy, phương thức quản lý - vận hành cũng phải mang tính liên ngành, chứ không thể tiếp cận riêng rẽ theo từng lĩnh vực. Ông dẫn ví dụ vận hành hồ trên sông Cầu có thể tác động đến sông Thương, hay điều tiết trên sông Đà ảnh hưởng đến giao thông và sản xuất ở đồng bằng sông Hồng. Điều này cho thấy cần vận hành theo quy mô toàn hệ thống sông, thay vì giới hạn trong một lưu vực nhỏ.
Bàn về định hướng sắp tới, ông Phong cho rằng ngành thủy lợi phải cập nhật cơ sở dữ liệu mưa - lũ, thông số thiết kế và tiêu chuẩn an toàn đập để phù hợp với các giá trị cực đoan mới của thời tiết. Chuyển đổi số không chỉ dừng ở việc số hóa dữ liệu, mà phải giúp ngành giải quyết các bài toán thực tế: dự báo lũ, tính toán dung tích phòng lũ và hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang tiếp thu các đề xuất của địa phương, như kiến nghị của Thái Nguyên về điều chỉnh mực nước dâng bình thường để tăng dung tích phòng lũ.
Ông Phong nhấn mạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng việc ứng dụng công nghệ mới và dữ liệu hiện đại, sẽ là nền tảng để bảo đảm an toàn hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khí hậu ngày càng cực đoan.
14h45
Xây dựng cơ sở dữ liệu rủi ro tại các đập vừa và nhỏ bằng phương pháp DRAPT
Tại Diễn đàn, PGS. TS. Hồ Sỹ Tâm, Trưởng Phòng Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế (Trường Đại học Thủy lợi), đã giới thiệu việc xây dựng cơ sở dữ liệu đánh giá nhanh rủi ro đối với các đập vừa và nhỏ bằng phương pháp DRAPT (Dam - Rapid - Assessment - Prioritisation - Tool), nằm trong khuôn khổ Dự án An toàn đập Việt Nam - New Zealand.
PGS. TS. Hồ Sỹ Tâm, Trưởng Phòng Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế (Trường Đại học Thủy lợi).
Hiện Việt Nam có khoảng 7.000 đập, trong đó nhiều đập đã xuống cấp, khả năng điều tiết lũ không còn đáp ứng yêu cầu. Phần lớn các đập này nằm ở thượng nguồn, trong khi hạ du là cộng đồng dân cư hoặc những khu vực đông người sinh sống. Hiểm họa mất an toàn đập xuất phát từ khả năng hư hỏng và mức độ thiệt hại nếu sự cố xảy ra, từ đó hình thành rủi ro an toàn đập.
PGS. TS. Hồ Sỹ Tâm cho biết, Công cụ DRAPT được phát triển nhằm cung cấp phương pháp đánh giá dựa trên chứng cứ thực địa và xác định thứ tự ưu tiên đầu tư sửa chữa, nâng cấp đập ở Việt Nam. DRAPT được xây dựng trong giai đoạn 2017-2018 bởi các chuyên gia an toàn đập và đã được thử nghiệm trên hơn 200 đập trong cả nước.
Công cụ này hỗ trợ đánh giá ban đầu về hiện trạng đập thông qua khảo sát hiện trường, năng lực đập tràn, hậu quả nếu xảy ra sự cố, các dạng hư hỏng tiềm ẩn và mức độ hiểm họa mất an toàn đập. Kết quả đánh giá cho phép cơ quan quản lý đưa ra quyết định hợp lý về việc điều tra chuyên sâu hoặc đầu tư công trình bổ trợ để giảm rủi ro.
DRAPT có thể áp dụng cho số lượng lớn đập trong phạm vi một xã, một công ty khai thác công trình thủy lợi hoặc một tỉnh. Quy trình đánh giá gồm 5 bước:
- Khảo sát đập và ghi nhận toàn bộ hiện trạng cùng các dấu hiệu bất thường.
- Đánh giá sơ bộ tác động hạ du, phạm vi ngập nếu vỡ đập và số dân cư có nguy cơ.
- Ước tính khả năng tràn theo lũ thiết kế.
- Xác định các kiểu sự cố đập có thể phát triển.
- Tổng hợp kết quả để đưa ra mức rủi ro an toàn đập.
Đến nay, DRAPT đã chứng minh hiệu quả khi áp dụng cho gần 150 đập tại Nghệ An và Hà Tĩnh và đang tiếp tục triển khai cho 85 đập ở Quảng Bình, Huế và Đắk Lắk.
Đại diện Trường Đại học Thủy lợi nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển đổi số trong quản lý an toàn hồ đập nói chung và với công cụ DRAPT nói riêng do thực tế số lượng hồ đập lớn, dữ liệu cần cập nhật tối thiểu mỗi năm một lần, danh sách hồ đập ưu tiên phải theo dõi thường xuyên.
Ngoài ra, việc số hóa sẽ giúp rút ngắn thời gian thu thập và xử lý thông tin. Đồng thời tạo thuận lợi cho phân cấp, phân quyền trong công tác đánh giá an toàn đập.
14h30
Thúc đẩy đầu tư hạ tầng truyền dẫn dữ liệu cho hệ thống quan trắc
TS Hà Ngọc Tuấn, Trưởng đại diện Weather Plus tại Việt Nam, giới thiệu hệ thống công cụ hỗ trợ vận hành hồ chứa mà đơn vị ông đã cùng các đối tác xây dựng trong nhiều năm qua.
TS Hà Ngọc Tuấn, Trưởng đại diện Weather Plus tại Việt Nam.
Theo ông, mục tiêu của hệ thống là giúp các đơn vị quản lý hồ chứa ở Việt Nam ra quyết định trong điều kiện mưa lũ cực đoan ngày càng gia tăng, đặc biệt tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ - nơi vừa trải qua chuỗi nhiều cơn bão, áp thấp nhiệt đới trong các tháng 7, 8 năm nay. Tập trung vào lưu vực sông Chu - sông Cả với tổng dung tích các hồ chứa khoảng 1,6 tỷ m³ nước, trong đó có nhiều hồ lớn như Cửa Đạt và một loạt hồ thủy điện vừa và nhỏ, TS Tuấn cho biết bài toán đặt ra là phải vừa bảo đảm an toàn đập, vừa giảm thiểu rủi ro ngập lụt cho hạ du.
Ông cho rằng, cách vận hành truyền thống chỉ dựa vào một điểm khống chế mực nước ở hạ du đã từng hiệu quả trong nhiều thập kỷ, nhưng nay không còn phù hợp khi biến đổi khí hậu làm cho quy luật mưa lũ thay đổi. Xu hướng mới là phải theo dõi đồng thời diễn biến mực nước, lưu lượng về hồ ở thượng lưu, tính toán theo thời gian thực để quyết định mực nước trước lũ tối ưu cho từng hồ.
Trên cơ sở đó, Weather Plus phối hợp xây dựng một hệ thống gồm ba trụ cột: mạng lưới quan trắc mưa chuyên dụng trên lưu vực; các mô hình dự báo mưa và dòng chảy được hiệu chỉnh riêng cho từng khu vực; và phần mềm hỗ trợ vận hành hồ chứa.
Phần mềm này có hai lớp: lớp đơn hồ giúp trực quan hóa dữ liệu, diễn biến mực nước - dòng chảy và kịch bản vận hành cho từng hồ; lớp tích hợp toàn lưu vực cho phép nối các hồ lại với nhau, đưa các thuật toán thủy lực và tối ưu vào tính toán chuỗi vận hành. Trong hệ thống có một “mô-đun tri thức” - nơi chuyên gia trực tiếp tham gia phân tích dữ liệu và đưa ra khuyến nghị, thay vì phó mặc hoàn toàn cho máy tính.
TS Tuấn lấy ví dụ một đợt lũ gần đây trên lưu vực sông Chu. Nhờ mạng lưới quan trắc mưa lắp đặt dày hơn và mô hình dự báo được thiết kế riêng cho khu vực này, nhóm của ông đã đưa ra hai kịch bản lũ về hồ với đỉnh lũ dự kiến khoảng 6.000 m³/s và tổng lượng nước về khoảng 700 triệu m³.
Thực tế sau đó gần như trùng với kịch bản cao, giúp các nhà máy thủy điện và hồ chứa chủ động cắt lũ, tránh để nước dâng vượt ngưỡng an toàn, bảo vệ được cả công trình và vùng hạ du. Hệ thống dự báo được đánh giá đạt tỷ lệ thành công trên 80% với các đợt mưa lớn ở Bắc Trung Bộ trong mùa lũ vừa qua.
Tuy vậy, ông cũng chỉ ra hạn chế lớn là nguy cơ mất tín hiệu truyền dữ liệu khi bão mạnh đổ bộ, khiến hệ thống quan trắc “mù” thông tin trong những thời điểm quan trọng nhất. Từ thực tế đó, TS Tuấn khuyến nghị ngành thủy lợi cần đầu tư hạ tầng truyền dẫn dữ liệu độc lập, ổn định hơn, tương tự cách ngành điện xây dựng hệ thống truyền dẫn riêng.
Ông nhấn mạnh, chỉ khi kết hợp được phương pháp vận hành phù hợp, dữ liệu đủ dày và công cụ tính toán đáng tin cậy, thì các giải pháp số mới thực sự phát huy hiệu quả trong bảo đảm an toàn hồ chứa và giảm thiểu thiệt hại do lũ.
14h15
Học hỏi kinh nghiệm từ hệ thống điều hành thông minh lưu vực sông Trường Giang (Trung Quốc)
Chia sẻ về Mô hình điều hành thông minh hệ thống hồ chứa phục vụ quản lý thiên tai lưu vực sông Trường Giang (Trung Quốc), GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, nhấn mạnh, đây là hệ thống đã trở thành “xương sống” trong quản lý lưu vực con sông dài nhất châu Á.
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, cho rằng có thể học hỏi kinh nghiệm từ hệ thống điều hành thông minh lưu vực sông Trường Giang (Trung Quốc).
Tại đây, thời tiết cực đoan xảy ra nhiều hơn, gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất và đời sống. Càng phát triển kinh tế - xã hội thì rủi ro thiên tai càng gia tăng. Vì thế, Trung Quốc buộc phải kết hợp toàn diện các biện pháp công trình, phi công trình, đặc biệt là điều hành hệ thống hồ chứa.
Lũ lịch sử năm 1954 trên sông Trường Giang với tổng lượng nước lên tới 102,3 tỷ m³ đã để lại những hậu quả sâu rộng. Khi mô phỏng điều tiết bằng Hệ thống hỗ trợ vận hành (DSS), lượng nước lũ dư thừa phải xả xuống có thể giảm còn 35 tỷ m³; nếu tối ưu thêm các dự án thủy lợi, con số đó hạ xuống khoảng 30 tỷ m³. Điều này đồng nghĩa giảm sử dụng vùng trữ lũ, tránh thiệt hại lớn về người và tài sản. Hiện lưu vực đã có 40 hồ chứa lớn với tổng dung tích phòng lũ 57 tỷ m³, tạo nền tảng cho một hệ thống điều tiết quy mô chưa từng có.
DSS giữ vai trò trung tâm trong dự báo lũ và vận hành hồ chứa. Hệ thống mô tả cấu trúc các công trình, mục tiêu điều hành và mối quan hệ giữa chúng, từ đó tạo ra quy trình vận hành nền. Nhờ công nghệ khai thác dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn, DSS có khả năng tự động đánh giá tình huống lũ, đưa ra gợi ý điều tiết thời gian thực. Các dịch vụ dựa trên vị trí giúp cảnh báo, hướng dẫn người dân trong vùng bị ảnh hưởng.
Trung tâm giám sát an toàn công trình thủy điện tại Trung Quốc. Ảnh: EVN.
DSS đã trở thành công cụ quan trọng trong điều tiết đa mục tiêu: kiểm soát lũ, cấp nước, thủy điện, giao thông thủy và bảo vệ hệ sinh thái.Kinh nghiệm từ Trường Giang đã giúp Trung Quốc xây dựng “Kế hoạch điều phối chung hàng năm cho nhóm hồ chứa”, được Bộ Thủy lợi phê duyệt cho các năm 2018 và 2019, đồng thời mở rộng mô hình này sang các lưu vực khác.
Tuy vậy, việc phát triển bộ quy tắc điều tiết có thể áp dụng rộng rãi vẫn gặp nhiều thách thức; học máy đang được nghiên cứu để học từ các kịch bản vận hành quá khứ, hỗ trợ ra quyết định trong điều kiện biến động nhanh.
Ông Dũng cho biết, Việt Nam đã quan tâm xây dựng DSS từ nhiều năm trước và thực tế cho thấy công cụ này hỗ trợ hiệu quả trong vận hành hồ chứa, liên hồ chứa và phòng chống thiên tai. Nhưng trước yêu cầu ngày càng lớn về an toàn đập, an toàn hạ du và tối ưu khai thác nước trong bối cảnh cực đoan khí hậu, Việt Nam cần một hệ thống hỗ trợ vận hành thông minh hơn, hiện đại hơn, đủ khả năng đáp ứng những thách thức mới của quản lý tài nguyên nước.
14h00
Tăng cường dữ liệu và công nghệ để vận hành công trình thủy lợi an toàn
Tham luận tại diễn đàn, TS. Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), nhấn mạnh, bối cảnh vận hành ngày càng phức tạp khi cả nước có khoảng 6.800 hồ chứa, nhưng chỉ 300 hồ chiếm tới 80% dung tích điều tiết và mới khoảng 200 hồ có cửa van chủ động. Trong khi đó, mưa lũ cực đoan giai đoạn 2024-2025 tiếp tục đặt ra sức ép lớn, buộc ngành thủy lợi phải cải thiện năng lực dự báo, giám sát và điều hành.
TS. Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), trình bày về hiện trạng ứng dụng công nghệ và cơ sở dữ liệu trong hỗ trợ vận hành công trình thủy lợi.
Viện Quy hoạch Thủy lợi hiện duy trì nhiều cơ sở dữ liệu trọng yếu, gồm hệ thống an toàn đập - hồ chứa, dữ liệu vận hành tưới tiêu với 45.000 công trình được định danh, cùng mạng lưới thông tin từ hệ thống đo mưa Vrain (hơn 2.600 trạm) và dữ liệu KTTV quốc gia. Kho dữ liệu của Viện bao gồm số liệu nguồn nước, mực nước hồ và dòng chảy thượng - hạ lưu, phục vụ cho mô hình tính toán, mô phỏng thủy lực và dự báo ngập lụt.
TS. Mạnh cho biết các nhóm chuyên gia của Viện được tổ chức theo từng lưu vực, trực vận hành lũ hằng ngày hoặc theo yêu cầu. Các mô hình mưa - dòng chảy MIKE NAM, HEC-HMS để tính toán và dự báo lượng nước chảy về hồ sau mỗi đợt mưa, trong khi Mike11, Mike Flood, HEC-ResSim hỗ trợ mô phỏng điều tiết hồ và diễn toán hạ du. Các kết quả này giúp xây dựng bản tin cảnh báo lũ, bản đồ ngập và đề xuất kịch bản vận hành tối ưu cho hàng chục hồ lớn như Cửa Đạt, Ngàn Trươi, Tả Trạch hay hệ thống sông Hồng - Thái Bình.
Tuy nhiên, chất lượng dự báo vẫn phụ thuộc lớn vào dữ liệu mưa và kinh nghiệm của chuyên gia, khiến sai số về đỉnh lũ và thời gian lũ còn xảy ra ở một số trận cụ thể. Các mô hình hiện hành cũng được đánh giá là đã cũ, cần nâng cấp để bắt kịp tốc độ biến đổi khí hậu và yêu cầu vận hành ngày càng khắt khe.
Nhân viên Công ty CP Tư vấn và phát triển kỹ thuật tài nguyên nước (WATEC) đang kiểm tra trạm đo mưa tự động và trạm cảnh báo mưa vượt ngưỡng.
Để khắc phục, TS. Mạnh đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn hóa định danh công trình và quy trình chia sẻ dữ liệu từ trung ương đến địa phương. Ngành thủy lợi cần kết nối và chia sẻ dữ liệu đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia, mạng lưới đo mưa tự động Vrain và các nền tảng thời tiết như WeatherPlus. Việc này giúp đảm bảo tất cả đơn vị vận hành đều có cùng một nguồn dữ liệu đầu vào, hạn chế sai số khi tính toán.
Cùng với đó, ngành cần đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích nhanh dữ liệu mưa, dòng chảy và hỗ trợ dự báo. TS. Mạnh nhấn mạnh, yếu tố quyết định vẫn là con người. Đội ngũ chuyên gia phải được duy trì trực vận hành mô hình thường xuyên, kể cả trong thời điểm không có lũ, nhằm liên tục kiểm tra, hiệu chỉnh dữ liệu và đảm bảo hệ thống luôn trong trạng thái sẵn sàng. Chỉ khi đó chất lượng dự báo mới được cải thiện và việc ứng phó với thiên tai mới thực sự chủ động.
13h45
Chuẩn hóa dữ liệu hệ thống hồ chứa để ứng phó với mưa lũ cực đoan
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới khi mưa lũ cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.
Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi, giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế. Nhờ sự quan tâm của các cấp, mùa mưa lũ 2025 tuy diễn biến dữ dội nhưng không xảy ra sự cố lớn, các hồ lớn vận hành tương đối hợp lý.
Thế nhưng, đằng sau đó là hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.
Thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật đầy đủ và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ được xây dựng từ năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ. Hầu hết các địa phương vẫn quản lý thủ công bằng Excel hoặc tài liệu rời rạc; dữ liệu không được cập nhật, không liên thông, khiến việc tổng hợp phục vụ chỉ đạo gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu và lạc hậu; nhiều hồ thiếu trạm mưa trên toàn lưu vực, số liệu quan trắc không ổn định.
Trong khi đó, mưa lũ những năm gần đây diễn biến trái quy luật, bão xuất hiện dồn dập. Không gian thoát lũ bị thu hẹp bởi đô thị hóa nhanh, hạ tầng tiêu thoát chưa theo kịp. Phối hợp vận hành liên hồ vẫn là “điểm mù” lớn: hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế, chưa có cơ chế điều phối thống nhất theo lưu vực. Quy trình vận hành nhiều hồ đã lạc hậu nhưng chưa được cập nhật vì thiếu công cụ, thiếu dữ liệu thời gian thực.
Khả năng tiêu thoát nước và chống ngập của nhiều vùng hạ du đang vượt ngưỡng chịu đựng, trong khi hệ thống cảnh báo ở các hồ nhỏ vẫn chủ yếu thủ công. Hạ tầng công nghệ thông tin không đủ mạnh để xử lý dữ liệu lớn; nguồn lực đầu tư quá hạn chế, mới đáp ứng khoảng 11,8% nhu cầu bảo trì và chủ yếu dùng để sửa chữa công trình, không có kinh phí cho công nghệ.
Cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Ảnh minh họa.
Để giải quyết những bất cập này, ông An cho rằng cần thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa. Trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý, ban hành tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, quan trắc và phần mềm vận hành. Cơ sở dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và vận hành theo nguyên tắc dùng chung, cho phép địa phương dùng phần mềm riêng nhưng bắt buộc kết nối qua API chuẩn.
Song song đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ trong phân tích dữ liệu và vận hành công nghệ mới. Việc bổ sung định mức kinh tế - kỹ thuật cho đầu tư IoT, phần mềm giám sát, AI và điện toán đám mây sẽ tạo cơ sở để các địa phương lập dự toán và triển khai thống nhất hơn.
Ông An khẳng định, khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, công tác vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn và đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt.
13h30
Hồ chứa giữ vai trò 'lá chắn', bảo đảm nguồn nước và sinh kế cộng đồng
Phát biểu tại Diễn đàn “Chuyển đổi số, khoa học công nghệ trong vận hành đập, hồ chứa nước” chiều 21/11, ông Vũ Minh Việt, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, cho biết, sự kiện diễn ra trong bối cảnh mưa lũ khốc liệt đang gây thiệt hại nặng nề ở nhiều vùng trên cả nước. Miền Trung, Khánh Hòa và Đắk Lắk tiếp tục đối mặt với ngập lụt nghiêm trọng, trong khi nhiều tỉnh phía Bắc vừa trải qua những trận lụt lịch sử. Thiệt hại về người và tài sản đã lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng.
Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường Vũ Minh Việt nhấn mạnh, mưa lũ cực đoan đặt ra yêu cầu cấp bách về chuyển đổi số trong vận hành hồ chứa.
Theo ông Việt, mưa lớn ở thượng nguồn đang tạo áp lực lớn cho công tác quản lý và vận hành hệ thống đập, hồ chứa, đặt ra hàng loạt câu hỏi về điều tiết lũ chính xác, đảm bảo an toàn công trình và cung cấp thông tin kịp thời, chính thống trong các tình huống khẩn cấp. Ông nhấn mạnh rằng chỉ khi đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng khoa học công nghệ vào vận hành thì các thách thức này mới có thể được giải quyết hiệu quả. “Đây phải được coi là giải pháp đột phá và ưu tiên hàng đầu”,ông nói.
Lãnh đạo Báo Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, các hồ chứa không chỉ là công trình thủy lợi mà còn giữ vai trò “lá chắn” bảo vệ dân cư, đảm bảo an ninh nguồn nước và góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nhiều công trình đã xây dựng từ lâu, hệ thống thông tin - dự báo chưa đồng bộ, đòi hỏi ngành thủy lợi phải chuyển mình mạnh mẽ, tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Ông Việt đánh giá cao ý nghĩa của Diễn đàn trong bối cảnh ngành đang triển khai Nghị quyết 57 về đột phá khoa học - công nghệ và chuyển đổi số; thực hiện Kết luận 36 của Bộ Chính trị về an toàn đập, hồ chứa; cùng Quyết định 1595 của Thủ tướng Chính phủ về hiện đại hóa quản lý vận hành hồ chứa thủy lợi. Các định hướng này được xem là hành lang quan trọng để nâng cao năng lực cảnh báo rủi ro và chủ động ứng phó mưa lũ.
Các hồ chứa không chỉ là công trình thủy lợi mà còn giữ vai trò “lá chắn”. Ảnh minh họa.
Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường nêu 6 mục tiêu chính của Diễn đàn: thống nhất nhận thức về tính cấp thiết của chuyển đổi số trước mưa lũ cực đoan; chia sẻ kinh nghiệm công nghệ trong và ngoài nước; đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật; xây dựng lộ trình phù hợp cho từng nhóm hồ chứa; thúc đẩy phối hợp liên ngành và xã hội hóa dữ liệu khí tượng thủy văn; và đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho người dân trong tình huống nguy hiểm, tránh gây hoang mang.
Ông Việt cũng đề nghị các chuyên gia, cơ quan quản lý và doanh nghiệp công nghệ tập trung thảo luận sâu vào thực trạng ứng dụng công nghệ, khả năng nhân rộng mô hình vận hành thông minh, khó khăn trong huy động nguồn lực và những đề xuất thiết thực để xây dựng hệ sinh thái chuyển đổi số đồng bộ cho ngành thủy lợi.
Nguồn: https://nongnghiepmoitruong.vn/chuyen-doi-so-ung-dung-cong-nghe-trong-van-hanh-bao-dam-an-toan-ho-dap-d785638.html

![[Ảnh] Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn hội đàm với Chủ tịch Thượng viện Quốc hội Cộng hòa Séc Milos Vystrcil](/_next/image?url=https%3A%2F%2Fvstatic.vietnam.vn%2Fvietnam%2Fresource%2FIMAGE%2F2025%2F11%2F21%2F1763715853195_ndo_br_bnd-6440-jpg.webp&w=3840&q=75)
![[Ảnh] Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp Chủ tịch Thượng viện Quốc hội Cộng hòa Séc Milos Vystrcil](/_next/image?url=https%3A%2F%2Fvstatic.vietnam.vn%2Fvietnam%2Fresource%2FIMAGE%2F2025%2F11%2F21%2F1763723946294_ndo_br_1-8401-jpg.webp&w=3840&q=75)
![[Ảnh] Chủ tịch nước Lương Cường tiếp Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Woo Won Shik](/_next/image?url=https%3A%2F%2Fvstatic.vietnam.vn%2Fvietnam%2Fresource%2FIMAGE%2F2025%2F11%2F21%2F1763720046458_ndo_br_1-jpg.webp&w=3840&q=75)
![[Ảnh] Về Hưng Yên chiêm ngưỡng ngôi chùa “kiệt tác gỗ” giữa lòng Đồng bằng Bắc Bộ](/_next/image?url=https%3A%2F%2Fvstatic.vietnam.vn%2Fvietnam%2Fresource%2FIMAGE%2F2025%2F11%2F21%2F1763716446000_a1-bnd-8471-1769-jpg.webp&w=3840&q=75)












































































Bình luận (0)