Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Kiên quyết xóa bỏ kẽ hở trong quản lý, cung ứng dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài

Cắt giảm, đơn giản hóa tối đa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính không cần thiết, triệt tiêu không gian cho tham nhũng, tiêu cực, "xin - cho". Tinh thần đó được Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng nhấn mạnh tại Hội nghị gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng diễn ra sáng 30/10.

Báo Tin TứcBáo Tin Tức30/10/2025

Chú thích ảnh
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng phát biểu. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN

Ngay sau hội nghị, Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng đã trả lời phỏng vấn của phóng viên Thông tấn xã Việt Nam về những khó khăn, nguyên nhân, cũng như các giải pháp trọng tâm nhằm khơi thông, phát huy hiệu quả nguồn lực lao động Việt Nam ở nước ngoài trong giai đoạn mới.

Còn kẽ hở, bất cập

Qua Hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, Thứ trưởng nhận thấy những khó khăn, vướng mắc nổi bật nào trong quá trình doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng? Ông đánh giá thế nào về tinh thần, thái độ và các kiến nghị của doanh nghiệp tại Hội nghị?

Qua buổi đối thoại hôm nay với hơn 100 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, chúng tôi ghi nhận tinh thần làm việc thẳng thắn, cầu thị, trách nhiệm và tâm huyết của cộng đồng doanh nghiệp. Các ý kiến, kiến nghị của doanh nghiệp thể hiện rõ mong muốn được đồng hành cùng cơ quan quản lý nhà nước trong việc hoàn thiện thể chế, cải thiện quy trình, tháo gỡ khó khăn để hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một hoàn thiện, hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Từ các ý kiến tại Hội nghị, có thể thấy một số nhóm khó khăn, vướng mắc nổi bật như sau:

Thứ nhất, thể chế, thủ tục hành chính rườm rà, qua nhiều tầng nấc trung gian, chồng lấn, sinh ra nhiều cơ chế, nhiều giấy phép để doanh nghiệp phải vất vả khi xin giấy phép mặc dù tự họ đã chứng minh được năng lực, nguồn tuyển dụng. Ví dụ như một số quy định trong xét duyệt hồ sơ đăng ký hợp đồng, điều kiện cấp phép và yêu cầu về hồ sơ còn cứng nhắc, chưa hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa thực sự phù hợp với tinh thần đổi mới của Đảng, Chính phủ trong việc hỗ trợ doanh nghiệp giảm thiểu thủ tục hành chính để phát triển, khiến doanh nghiệp khó linh hoạt trong đàm phán hợp đồng với đối tác nước ngoài…

Thứ hai, về thị trường. Tình hình địa chính trị và biến động kinh tế tại một số nước tiếp nhận, đặc biệt là khu vực Đông Á và Trung Đông, đã ảnh hưởng tới tiến độ ký kết và thực hiện hợp đồng. Một số thị trường truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) vẫn còn tồn tại tình trạng lao động bỏ hợp đồng, cư trú bất hợp pháp, trong khi các thị trường mới ở châu Âu, Trung Đông tuy có tiềm năng nhưng yêu cầu cao về tay nghề, ngoại ngữ và tiêu chuẩn kỹ thuật khiến doanh nghiệp khó mở rộng nhanh.

Thứ ba, về chất lượng nguồn lao động. Năng lực ngoại ngữ, kỹ năng nghề và ý thức kỷ luật của một bộ phận người lao động chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường có tiêu chuẩn cao. Công tác tuyển chọn và đào tạo nguồn lao động ở một số địa phương còn phân tán, chịu ảnh hưởng của các cá nhân, tổ chức môi giới không có chức năng, làm tăng chi phí và ảnh hưởng tới uy tín doanh nghiệp.

Tôi đánh giá cao tinh thần chủ động, xây dựng và trách nhiệm của các doanh nghiệp tại Hội nghị lần này. Các kiến nghị được nêu ra đều có cơ sở thực tiễn, tập trung vào những vấn đề cốt lõi như đơn giản hóa thủ tục, mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường bảo vệ quyền lợi của người lao động. Đây cũng là những nội dung Bộ Nội vụ chỉ đạo Cục Quản lý lao động ngoài nước tập trung rà soát để sửa đổi, hoàn thiện Nghị định 112/2021/NĐ-CP và các Thông tư hướng dẫn nhằm tạo môi trường thuận lợi, minh bạch và cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài.
Hội nghị hôm nay minh chứng cho tinh thần đồng hành giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp, cùng kiến tạo một môi trường phát triển bền vững. Chính sách phải xuất phát từ thực tiễn. Sự phát triển của doanh nghiệp là thước đo hiệu quả cho chính sách. Bộ Nội vụ sẽ tiếp tục duy trì cơ chế đối thoại, lắng nghe, tổng hợp đầy đủ các ý kiến, để kịp thời tham mưu Chính phủ tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài phát triển bền vững, hiệu quả.

Những khó khăn đó, theo Thứ trưởng, do con người hay thể chế, chính sách? Phải chăng còn những kẽ hở dẫn đến tiêu cực trong quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công?

Những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp xuất phát từ cả nguyên nhân thể chế, chính sách và nguyên nhân con người, trong đó yếu tố thể chế là nền tảng, yếu tố con người lại quyết định hiệu lực thực thi.

Về thể chế, như tôi đã nêu, một số quy định hiện hành còn thiếu tính linh hoạt, chưa thật sự đồng bộ với tinh thần cải cách hành chính, giảm thủ tục, hỗ trợ doanh nghiệp theo chỉ đạo của Đảng và Chính phủ. Một số quy trình, thủ tục còn phức tạp, gây kéo dài thời gian và tăng chi phí tuân thủ của doanh nghiệp.

Về thực thi, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng trong một số khâu quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công vẫn còn kẽ hở, bất cập, tạo điều kiện phát sinh hiện tượng tiêu cực, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực sự nêu cao tinh thần phục vụ, còn biểu hiện e ngại trách nhiệm, thậm chí có hành vi lợi dụng vị trí để vụ lợi, làm giảm niềm tin và gây khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động.

Bộ Nội vụ đặt ra yêu cầu phải xây dựng thể chế đủ chặt chẽ để không ai dám vi phạm, không có điều kiện để vi phạm và cũng không muốn vi phạm, kiên quyết xóa bỏ triệt để những kẽ hở dễ dẫn đến tiêu cực trong quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công. Đồng thời, yêu cầu siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm sai phạm; tiếp tục hoàn thiện thể chế, minh bạch hóa quy trình, chuyển từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thuận lợi, công bằng cho các doanh nghiệp và bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động Việt Nam ở nước ngoài.

Khơi thông nguồn lực, củng cố niềm tin

Chú thích ảnh
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng phát biểu. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN

Ông từng nhấn mạnh, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế, đồng thời là một kênh đối ngoại đặc biệt - đối ngoại nhân lực. Bộ Nội vụ có giải pháp gì để tháo gỡ điểm nghẽn, khơi nguồn lực này trong thời gian tới?

Tôi cho rằng hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài không chỉ là một trụ cột quan trọng của nền kinh tế mà còn là một kênh đối ngoại đặc biệt - đối ngoại nhân lực, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị, giao lưu nhân dân và quảng bá hình ảnh con người Việt Nam ra quốc tế. Đây cũng là một trong những hình thức “đối ngoại nhân dân” hiệu quả, bổ trợ cho đối ngoại Nhà nước và đối ngoại kinh tế, tạo dựng vị thế quốc gia bằng uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Trong thời gian tới, Bộ Nội vụ xác định phải khơi thông lại nguồn lực, củng cố niềm tin và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực này.

Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ đã có Nghị quyết chuyên đề số 37 với 6 nhóm vấn đề để tháo gỡ cho lĩnh vực này. Hội nghị hôm nay là một trong những nội dung Thường vụ Đảng ủy Bộ yêu cầu triển khai đối với các doanh nghiệp. Cùng với đó, Bộ Nội vụ triển khai nhiều giải pháp.

Trước hết, Bộ sẽ tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế, đảm bảo các quy định về cấp phép, đào tạo, tuyển chọn, ký kết hợp đồng... được minh bạch, nhất quán và phù hợp với thực tiễn. Chúng tôi đã đề xuất sửa Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đồng thời tham mưu Chính phủ xây dựng Chiến lược quốc gia về đưa người lao động đi nước ngoài tạo một cơ chế,  một nền tảng thống nhất để công khai, minh bạch hóa những vấn đề này.

Song song với đó là đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động quản lý điều hành và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, chuyển mạnh từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, từ “quản lý” sang “phục vụ”, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động đúng pháp luật, thuận lợi và hiệu quả hơn, hạn chế tối đa việc doanh nghiệp tiếp xúc với các cán bộ thực thi nhiệm vụ ở Bộ, Cục.

Vấn đề thứ hai chúng tôi ưu tiên là công tác tuyên truyền, đặc biệt là tuyên truyền những thỏa thuận quốc tế, thủ tục, cơ chế, kinh phí, để người dân nhận diện được loại hình lao động và tham gia.

Thứ ba, chúng tôi tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động đưa ra nước ngoài, từ kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng ứng xử, ngoại ngữ, để người lao động ra nước ngoài vừa phát huy tay nghề, vừa là những sứ giả về văn hóa Việt Nam. Không để tình trạng người lao động Việt Nam ra nước ngoài vi phạm pháp luật, hoặc trở thành gánh nặng cho nước sở tại, gây ảnh hưởng không chỉ đến thu nhập của người lao động mà cả uy tín quốc gia.

Tiếp theo, chúng tôi triển khai đồng bộ các giải pháp để ổn định, duy trì các thị trường lao động truyền thống như Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản, Hàn Quốc; đồng thời đẩy mạnh tìm kiếm thị trường lao động mới, tăng cường đàm phán ký kết các thỏa thuận quốc tế về hợp tác lao động với các nước phát triển có nền công nghiệp hiện đại để tạo tiền đề và cơ sở pháp lý đưa lao động có chuyên môn, kỹ thuật cao (như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, công nghệ bán dẫn,...) sang làm việc, đặc biệt là các nước khu vực Tây Âu và Bắc Âu. Hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh hợp tác, khai thác các thị trường lao động ngoài nước tiềm năng, có thu nhập cao, điều kiện làm việc tốt.

Ngoài ra, tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ, xử lý nghiêm sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong hệ thống; đồng thời nâng cao năng lực, đạo đức công vụ, trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức.

Về lâu dài, tôi cho rằng cần xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động để doanh nghiệp chủ động báo cáo tự kiểm tra, giám sát định kỳ gửi cơ quan quản lý nhà nước, phục vụ công tác rà soát, chấn chỉnh hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của các doanh nghiệp. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành, địa phương và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để vừa mở rộng thị trường lao động, vừa nâng cao chất lượng “đối ngoại nhân lực”, phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài như một kênh ngoại giao nhân dân bền vững, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước.

Tôi tin rằng khi triển khai đồng bộ các giải pháp trên cũng như các kiến nghị của doanh nghiệp, nhiệm vụ đưa người đi lao động nước ngoài sẽ có những bước thay đổi đáng kể, tạo ra một luồng gió mới. Chúng tôi quan niệm rằng trách nhiệm của các doanh nghiệp đưa người đi lao động không chỉ là quy trình thủ tục đưa họ xuất cảnh là xong mà phải là một chuỗi tuần hoàn từ khi ký thỏa thuận quốc tế cho đến lúc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng lao động, xuất cảnh, quá trình bảo hộ người lao động ở nước ngoài. Đặc biệt là lúc người lao động hoàn thành phái cử ở nước ngoài quay trở về nước. Quá trình ở nước ngoài là quá trình họ thực tập tay nghề và chúng ta lại tiếp tục sử dụng tay nghề cao đã được huấn luyện, đào tạo kỹ năng ở nước ngoài để góp phần vào thị trường lao động trong nước, tay nghề của họ được sử dụng cho các doanh nghiệp trong nước.

Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!

Nguồn: https://baotintuc.vn/thoi-su/kien-quyet-xoa-bo-ke-ho-trong-quan-ly-cung-ung-dich-vu-dua-lao-dong-di-lam-viec-o-nuoc-ngoai-20251030181255153.htm


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

TPHCM thu hút đầu tư từ doanh nghiệp FDI trong vận hội mới
Lũ lụt lịch sử ở Hội An, nhìn từ máy bay quân sự Bộ Quốc phòng
'Đại hồng thủy' trên sông Thu Bồn vượt lũ lịch sử năm thìn 1964 là 0,14 m
Cao nguyên đá Đồng Văn - 'bảo tàng địa chất sống' hiếm có trên thế giới

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Ngắm nhìn 'Vịnh Hạ Long trên cạn' vừa lọt top điểm đến yêu thích nhất thế giới

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm