GẦN GẤP ĐÔI ĐỒNG NGHIỆP QUỐC TẾ
Cụ thể hơn về kết quả khảo sát, 64% giáo viên (GV) tại VN cho biết đang dùng trí tuệ nhân tạo (AI) để giảng dạy và hỗ trợ học sinh (HS), đứng thứ 5 toàn cầu, xếp sau Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Singapore (cùng đạt 75%), New Zealand (69%) và Úc (66%). Tỷ lệ này cao gần gấp đôi so với mức trung bình toàn cầu (36%) và cách biệt đáng kể với một số nền kinh tế lớn như Mỹ, Anh.
Giáo viên tham gia tập huấn áp dụng AI trong STEM
ẢNH: NGỌC LONG
Ngược lại, Nhật Bản và Pháp là những quốc gia đứng cuối về tỷ lệ GV sử dụng AI, với dữ liệu ghi nhận lần lượt chỉ ở mức 17% và 14%.
Về phương thức ứng dụng, hầu hết GV ở VN (95%) dùng AI để soạn giáo án hoặc thiết kế hoạt động học tập, bên cạnh các hoạt động như tìm hiểu và tóm tắt một chủ đề (91%), giúp HS thực hành kỹ năng mới trong tình huống thực tế (83%).
OECD cho biết thêm trong số những GV VN thừa nhận chưa dùng AI khi giảng dạy trong 12 tháng trước thời điểm khảo sát, 60% nói rằng chưa có đủ kiến thức và kỹ năng để dạy học với AI (thấp hơn mức trung bình 15%), trong khi 71% cho rằng trường học nơi họ công tác thiếu cơ sở hạ tầng để ứng dụng AI (cao hơn mức trung bình 34%).
TALIS cũng khảo sát thái độ của GV với AI và chỉ ra thầy cô VN là những người lạc quan nhất với sự tiện lợi của AI. Bởi lẽ 91% GV đồng tình AI giúp GV soạn hoặc cải thiện giáo án, 90% đồng tình AI cho phép GV soạn học liệu phù hợp với năng lực khác nhau của học trò, và 83% nhất trí AI giúp GV tự động hóa các công việc hành chính.
Ở 3 chỉ số trên, VN đều đứng đầu trong 55 hệ thống giáo dục tham gia khảo sát, theo thống kê của OECD.
Sự lạc quan này tiếp tục thể hiện rõ nét khi chỉ 39% GV VN tin rằng AI sẽ tạo cơ hội cho HS gian lận bằng cách trình bày công trình của người khác như của mình. Tỷ lệ trên thấp nhất trong số những hệ thống giáo dục được khảo sát và cũng cách biệt đáng kể so với mức bình quân OECD (72%).
NGUYÊN NHÂN GV CHUỘNG DÙNG AI
Theo các chuyên gia, việc thầy cô giáo VN nằm trong nhóm dẫn đầu thế giới về mức độ ứng dụng AI bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó có cú hích từ các chính sách, chương trình bồi dưỡng do ngành giáo dục triển khai từ địa phương đến T.Ư. Một điểm nhấn nổi bật là dự án Đổi mới sáng tạo trong giáo dục với AI (EEAI) của Trường ĐH RMIT VN, hè vừa qua phối hợp với Bộ GD-ĐT tổ chức tập huấn trực tuyến về ứng dụng AI trong dạy và học cho hơn 350.000 GV và cán bộ quản lý giáo dục trên toàn quốc.
TALIS là khảo sát quốc tế lớn nhất thế giới về GV, cán bộ quản lý giáo dục, được đánh giá theo chu kỳ 5 năm/lần và hiện tăng thành 6 năm. Tại VN, 4.550 GV và hiệu trưởng tại 202 trường trên cả nước đã tham gia khảo sát từ ngày 28.3 - 5.4.2024. Trong khi đó trên toàn cầu, cuộc khảo sát ghi nhận ý kiến của khoảng 280.000 GV, hiệu trưởng ở 17.000 trường THCS cùng số ít GV và hiệu trưởng ở các trường tiểu học và THPT, theo OECD.
Tiến sĩ Trần Đức Linh, Trưởng ban dự án, và tiến sĩ Phạm Chí Thanh, Phó trưởng ban dự án EEAI, cùng công tác tại Khoa Khoa học, kỹ thuật và công nghệ Trường ĐH RMIT VN, cho biết đợt tập huấn đã thu hút GV từ mầm non, tiểu học tới CĐ, ĐH. Nhiều thầy cô lớn tuổi cũng tham gia rất tích cực. "Các thầy cô chia sẻ rằng đã rất lâu rồi mới có cơ hội trải nghiệm vai trò người học và nội dung chương trình có thể áp dụng ngay vào giảng dạy", tiến sĩ Linh cho hay và phân tích thêm: "Sự khuyến khích của Bộ GD-ĐT và chương trình tập huấn kịp thời đã giúp tháo gỡ nhiều rào cản, tạo động lực để thầy cô tự tin hơn khi ứng dụng AI".
Theo tiến sĩ Linh, nhiều GV trước đây còn lo ngại về AI, nay đã thành thạo các công cụ và thậm chí tự lập trình tạo trang học liệu, website phục vụ hoạt động giảng dạy và quản lý học tập tại đơn vị.
Song song với hoạt động tập huấn, dự án EEAI còn vận hành một cộng đồng trực tuyến hơn 280.000 GV, nơi thầy cô thường xuyên trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm ứng dụng AI trong giáo dục.
"AI đang được đón nhận nhanh và tích cực, phù hợp với định hướng chuyển đổi số của nhà nước. Chúng tôi chứng kiến sự thay đổi rõ rệt qua từng năm. Năm 2024, nhiều GV còn hạn chế trong việc sử dụng công cụ AI; nhưng chỉ một năm sau, họ đã nắm vững nền tảng, thao tác nhanh hơn và mạnh dạn đưa AI vào thực tiễn tại cơ sở giáo dục", tiến sĩ Thanh chia sẻ.
Tuy nhiên, hai chuyên gia cũng nhấn mạnh việc sử dụng AI cần đi kèm ý thức bảo mật dữ liệu và hiểu biết về ranh giới giữa "ứng dụng" và "lạm dụng" AI, cả với GV lẫn HS. "Công cụ tự thân không tốt cũng không xấu, quan trọng là cách chúng ta sử dụng nó như thế nào cho hiệu quả", hai tiến sĩ nhận định.
Chuyên phát triển công cụ AI miễn phí cho GV, thạc sĩ Lê Nguyễn Như Anh, nhà sáng lập nền tảng Edtech Corner, nghiên cứu sinh giáo dục tại ĐH South Australia (Úc) và là giảng viên Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, nhận định một lý do khác khiến GV Việt tích cực ứng dụng AI đến từ đặc thù công việc. "Thầy cô VN có nhiều đầu việc phải làm hơn nếu so với đồng nghiệp nước ngoài và điều này tạo ra áp lực không nhỏ", thầy Như Anh nói.
Thế nên, theo thạc sĩ Như Anh, khi biết AI có thể hỗ trợ giải quyết công việc với tốc độ nhanh cùng kết quả chấp nhận được, nhiều thầy cô đã tìm đến công cụ này như lẽ thường tình, từ soạn học liệu cho tới việc giải thích công văn, thông tư từ ngành giáo dục.
Cũng theo thầy Như Anh, khi nhu cầu tăng cao, các công cụ AI đa tác vụ như ChatGPT lại không thể đáp ứng quá hiệu quả nhu cầu chuyên môn đặc biệt ở lĩnh vực giáo dục, như đánh giá bài làm, soạn giáo án. Điều này yêu cầu các bên phải hướng dẫn GV tìm thêm những công cụ phù hợp với mục đích cũng như tổ chức tập huấn bài bản, đi vào chiều sâu thay vì chỉ dừng ở giới thiệu tính năng.
Buổi trao đổi trực tuyến trong chương trình tập huấn về AI cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trên cả nước do Bộ GD-ĐT và Trường ĐH RMIT VN phối hợp tổ chức
ẢNH: CHỤP MÀN HÌNH
LƯU Ý TRONG KỶ NGUYÊN AI
Thạc sĩ Đỗ Nguyễn Đăng Khoa, quản trị viên diễn đàn trực tuyến phi lợi nhuận "People of TESOL" (tạm dịch: Cộng đồng GV tiếng Anh), đang là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành giảng dạy tiếng Anh và ngôn ngữ học ứng dụng ĐH Warwick (Anh), chỉ ra thực tế sau thời kỳ xem AI là "phép màu" có thể tạo ra nhiều sản phẩm, nhiều GV lại trở về với những tài liệu sẵn có trước đây "bởi nó vốn xác tín và an toàn hơn so với tài liệu AI tạo ra".
Một xu hướng khác, theo thầy Khoa là các hội thảo về giảng dạy tiếng Anh hiện tại có rất nhiều nội dung về AI và những buổi báo cáo về việc ứng dụng AI trong dạy học đều thu hút đông đảo người tham gia. "Cảm giác như mọi người thực sự trông chờ, muốn chủ động tìm thêm công cụ cho mình. Thực tế, nhờ có AI mà thầy cô làm thêm được nhiều cái trước đây không làm được", thầy chia sẻ.
Ngoài ra, đối sánh với bình diện quốc tế, thạc sĩ Khoa nhận thấy nhiều thầy cô nước ngoài còn xa lạ với một số công cụ AI trong khi người Việt lại khá nằm lòng. Đây là quan sát thực tế của thầy khi tham dự một hội thảo quốc tế về dạy tiếng Anh quy mô hàng đầu thế giới diễn ra tại Mỹ hồi năm trước.
Thạc sĩ Như Anh thì lưu ý, AI đang giảm sự bất bình đẳng số trong đội ngũ GV, giúp thầy cô vùng sâu, vùng xa vẫn có thể ứng dụng công nghệ mới. Tuy nhiên, nếu việc triển khai không đồng bộ, không có sự phối hợp giữa các bên, công cụ này có thể trở thành nguyên nhân tăng cao sự bất bình đẳng số, khiến những thầy cô không tiếp cận với AI ngày càng bị bỏ lại phía sau.
AI cũng đồng thời tạo ra thách thức về chiều sâu năng lực sư phạm, chuyên gia này nhấn mạnh. Bởi khi dùng AI để tư duy, suy nghĩ thay mình quá nhiều, công cụ này có thể làm thầy cô bị thui chột sự sáng tạo. "Thế nên, cần hướng dẫn rõ AI có thể và không thể làm gì, song song đó các nhà giáo cũng cần được trau dồi nghiệp vụ sư phạm để thẩm định lại sản phẩm do AI tạo ra", thầy Như Anh cho hay đồng thời đặt vấn đề: "Nếu cứ để AI thay mình làm hết, rốt cuộc chúng ta là ai?".
Nguồn: https://thanhnien.vn/ly-do-giao-vien-viet-nam-xep-thu-5-toan-cau-ve-ty-le-dung-ai-18525111721424209.htm






Bình luận (0)