Vietnam.vn - Nền tảng quảng bá Việt Nam

Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong thế kỷ 21: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Báo Nhân Dân giới thiệu phát biểu của đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tại Hội thảo lý luận lần thứ 20 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc “Con đường và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI”.

Báo Nhân dânBáo Nhân dân12/11/2025

Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu tại hội thảo.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu tại hội thảo.

Thưa các đồng chí,

Công cuộc đổi mới của Việt Nam sau 40 năm và sự nghiệp cải cách mở cửa của Trung Quốc sau gần 50 năm đã thật sự mang đến những thành tựu vĩ đại, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao; và từ đây thế giới đã thay đổi nhận thức, có góc nhìn đúng hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ 21. Cả hai dân tộc chúng ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, vững vàng trước những biến động lịch sử, lựa chọn và kiến tạo con đường phát triển phù hợp với thực tiễn của mỗi nước.

Những thành tựu vĩ đại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở hai nước chúng ta thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là điểm tương đồng rất căn bản để chúng ta tiếp tục tổng kết, chia sẻ kinh nghiệm lý luận và thực tiễn, viết tiếp những trang sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước.

Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, phù hợp với quy luật và xu thế phát triển chung của thời đại, từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới. Đó là sự lựa chọn mang tính lịch sử; là quá trình đổi mới toàn diện tư duy, nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; là sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc về mô hình phát triển và theo đó, là đường lối lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… của Đảng Cộng sản Việt Nam; trở thành sự nghiệp sáng tạo vĩ đại mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa to lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, do nhân dân Việt Nam thực hiện.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam với tinh thần kế thừa, đổi mới và phát triển trong tổng kết thực tiễn, hoàn thiện nhận thức lý luận của Đảng, đã làm rõ hơn bản chất, mục tiêu, đặc trưng, phương hướng, quy luật vận động trong quá trình xây dựng và hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quán triệt sâu sắc quan điểm: Lấy phát triển để ổn định và ổn định để thúc đẩy phát triển bền vững, không ngừng nâng cao đời sống và hạnh phúc của nhân dân; thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập của dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân và ước nguyện trong bản Di chúc thiêng liêng của Người, chúng tôi đã xác định mục tiêu: Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, để tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên phát triển mới.

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà chúng tôi đang xây dựng được dựa trên ba trụ cột, đó là:

1- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đột phá sáng tạo lý luận rất cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là mô hình phát triển kinh tế tổng quát của Việt Nam; là nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế; vận hành đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là các vấn đề về bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh và khởi nghiệp sáng tạo, được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể và là người được thụ hưởng các thành quả phát triển, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; thực hành sáng tạo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, phù hợp với điều kiện thực tế và mô hình hệ thống chính trị Việt Nam.

3- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ chế hữu hiệu để bảo đảm quyền làm chủ thực chất của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, được thực hiện cả trực tiếp và đại diện thông qua hệ thống chính trị mà hạt nhân là Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền; thực hiện nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; hiện thực hóa chủ nghĩa nhân văn trong phát triển; thể hiện “ý Đảng-lòng Dân”, “dân là gốc” trong mọi chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Cả 3 trụ cột đều thể hiện rất nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố quyết định mọi thành công trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng tôi luôn có tiếp cận toàn diện, biện chứng trong mọi chủ trương, định hướng phát triển: Kiên trì ổn định kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng bền vững; không đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà luôn đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa, con người, bảo vệ môi trường sinh thái trong từng bước đi, từng chính sách phát triển; triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: Phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa, con người là nền tảng; tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên.

Thưa các đồng chí,

Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc Đổi mới trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng tôi hướng vào hoàn thiện cấu trúc phát triển “ba vòng tròn đồng tâm” - bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, thể chế vận hành, nguồn lực và năng lực tổ chức thực thi, đó là:

1- Xác lập mô hình tăng trưởng kinh tế mới, lấy khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; tập trung thực hiện các chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực; phát huy vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước, nhất là trong việc bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, tiên phong dẫn dắt và kiến tạo phát triển các lĩnh vực có tính nền tảng hoặc rủi ro cao mà khu vực tư nhân chưa sẵn sàng tham gia; phát triển khu vực tư nhân trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, nhất là trong tiên phong đổi mới sáng tạo, khơi thông các nguồn lực của xã hội, tạo việc làm và đóng góp to lớn vào tăng trưởng,...

2- Xác lập và hoàn thiện mô hình phát triển mới của Việt Nam với tầm nhìn toàn diện, xuyên suốt về phát triển nhanh, bao trùm, bền vững, tự chủ chiến lược; kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; lấy con người làm trung tâm, chú trọng phát triển con người toàn diện, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; thực hiện thắng lợi hai mục tiêu 100 năm: Đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3- Hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong thế kỷ 21; trên cơ sở tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhất là tổng kết 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, tổng kết 100 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam để bổ sung, phát triển sáng tạo những đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và các biện pháp giải quyết các mối quan hệ lớn mang tính quy luật của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Từ kinh nghiệm của mình, chúng tôi nhận thức sâu sắc ý nghĩa của việc mỗi Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền cần xây dựng được một hệ thống lý luận phát triển mang bản sắc riêng, dựa trên nguyên lý phổ quát của chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc qua các thời kỳ, hiện nay là Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới, làm kim chỉ nam cho sự nghiệp hiện đại hóa kiểu Trung Quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ: Lý luận về đường lối Đổi mới là bộ phận cấu thành sống động của nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn mới. Đối với chúng tôi, đây là sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới; là sự bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phù hợp với các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn đất nước và xu thế thời đại, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa, giá trị văn hoá và các thành tựu phát triển của nhân loại; là ngọn đuốc soi đường tiếp tục dẫn dắt Việt Nam thực hiện thành công khát vọng, tầm nhìn và các định hướng chiến lược, lập nên những kỳ tích phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thưa các đồng chí,

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn, internet kết nối vạn vật và nhiều đột phá công nghệ khác,… đang tạo ra những thay đổi mang tính thời đại, định hình lại không gian và cấu trúc phát triển của thế giới đương đại, thay đổi sâu sắc phương thức sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và theo đó, đòi hỏi sự đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức quản trị nhà nước và quản trị xã hội.

Thế giới đang chứng kiến sự nổi lên của “chủ nghĩa tư bản kỹ thuật số” như một mô thức tích lũy dựa trên quyền lực “nền tảng” và dữ liệu. Dữ liệu trở thành tư liệu sản xuất chiến lược; thuật toán và hạ tầng số là “cỗ máy giá trị”; hiệu ứng mạng tạo ra độc quyền mới và nền kinh tế số tư bản chủ nghĩa bị chi phối bởi một số ít các tập đoàn xuyên quốc gia. Đối trọng với mô thức đó, “chủ nghĩa xã hội kỹ thuật số” hay “chủ nghĩa xã hội công nghệ” sử dụng khoa học-công nghệ để hiện thực hóa các giá trị đích thực của xã hội xã hội chủ nghĩa: Công bằng, bao trùm, phát triển vì con người. Phương thức phát triển trọng tâm là kiến tạo “hạ tầng số công cộng”, coi dữ liệu công và một phần dữ liệu tư có tính hệ thống là tiện ích công được quản trị vì lợi ích chung, miễn phí hoặc chi phí thấp; bảo đảm chủ quyền số, an ninh mạng và đổi mới sáng tạo có trách nhiệm; kiểm soát việc tập trung quyền lực “nền tảng” bằng luật cạnh tranh số; thúc đẩy mô hình sở hữu đa dạng, khuyến khích mã nguồn mở; bảo đảm phân phối lại giá trị gia tăng từ tự động hóa và AI thông qua phúc lợi số. Đây vừa là cơ hội bứt phá của đất nước, vừa là phép thử bản lĩnh lãnh đạo, năng lực quản trị và sức sáng tạo của Đảng Cộng sản trong kỷ nguyên số.

Ở Việt Nam, khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được xác định là một đột phá phát triển trong giai đoạn mới. Điều này cũng đặt ra yêu cầu phải cập nhật, hoàn thiện lý luận về xây dựng Đảng và Nhà nước trong kỷ nguyên số; đổi mới phương thức lãnh đạo, quản trị và quản lý dựa trên dữ liệu; hoàn thiện các công cụ chính sách dựa trên phân tích thời gian thực; xây dựng cơ chế người dân là trung tâm và khuyến khích sự tham gia của người dân trong không gian số; phòng, chống các nguy cơ mới về an ninh mạng, an ninh dữ liệu, an ninh con người trong môi trường số; thực hiện học tập suốt đời, nâng cao kỹ năng số cho toàn dân, bảo đảm “không ai bị bỏ lại phía sau” trong làn sóng công nghệ và số hóa. Trung Quốc đang đẩy mạnh chiến lược phát triển dựa vào đổi mới sáng tạo, đầu tư mạnh cho các công nghệ lõi, tự cường tự chủ trong những lĩnh vực then chốt của kinh tế số, AI và dữ liệu lớn. Đây là điểm hội tụ quan trọng để chúng ta thảo luận sâu hơn về thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực mới, như: hạ tầng dữ liệu mở, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn kỹ thuật, huy động nguồn lực và thị trường vốn cho đổi mới sáng tạo, đào tạo và thu hút nhân tài, bảo đảm công bằng trong tiếp cận thành quả khoa học-công nghệ,... đúng như bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội.

Cùng với chuyển đổi số, thách thức môi trường và biến đổi khí hậu buộc các mô hình phát triển phải tái cấu trúc theo hướng xanh, tuần hoàn, phát thải thấp. Với quan điểm phát triển bền vững, Việt Nam xác định bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Chúng tôi đang triển khai cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 bằng kế hoạch hành động cụ thể, chiến lược chuyển dịch năng lượng công bằng, khuyến khích công nghệ sạch và tiêu dùng bền vững, cải thiện quản trị tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên nước, rừng, biển. Ở Trung Quốc, định hướng xây dựng “văn minh sinh thái” với mục tiêu đạt đỉnh phát thải trước năm 2030 và trung hòa carbon vào năm 2060 là những mốc lớn trong việc thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xanh, sinh thái và thông minh. Sự chia sẻ về tầm nhìn và mục tiêu đó tạo nền tảng để hai nước chúng ta thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực công nghệ xanh, tài chính xanh, cùng nhau nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về “chủ nghĩa xã hội sinh thái” - một hướng tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI.

Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và Trung Quốc còn có điểm tương đồng là hệ giá trị văn hóa. Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam có sự kết hợp hài hòa giữa giá trị Việt Nam, giá trị phương Đông và các giá trị phổ quát của nhân loại. Chúng tôi kế thừa, phát huy tinh hoa văn hóa châu Á - trọng nghĩa tình, hoà hiếu, nhân văn, coi trọng cộng đồng, ổn định, kỷ cương; kết tinh các giá trị Việt Nam - lòng yêu nước nồng nàn, tự cường, tự chủ chiến lược, tinh thần đại đoàn kết, cần cù, sáng tạo, nhân ái, thủy chung và bao dung; đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ chung của nhân loại như: Pháp quyền, dân chủ, quyền con người, phát triển bao trùm và bền vững. Theo đó, văn hóa được đặt ngang hàng với kinh tế và chính trị; xây dựng và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài để văn hóa thật sự “soi đường cho quốc dân đi”, là nền tảng tinh thần, là nguồn lực, sức mạnh nội sinh, là động lực quan trọng để phát triển đột phá đất nước trong kỷ nguyên mới, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu.

Tôi tin tưởng rằng, hội thảo chúng ta sẽ tiếp tục tổng kết, làm sâu sắc hơn nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn mới về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc vì hạnh phúc của nhân dân, phồn vinh của đất nước, đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.

Xin trân trọng cảm ơn!

Nguồn: https://nhandan.vn/mo-hinh-chu-nghia-xa-hoi-viet-nam-trong-the-ky-21-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-post922633.html


Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chuyên mục

'Sa Pa xứ Thanh' mờ ảo trong sương mù
Vẻ đẹp Làng Lô Lô Chải mùa hoa tam giác mạch
Hồng treo gió - vị ngọt của mùa thu
Quán “cà phê nhà giàu” trong ngõ ở Hà Nội, bán 750.000 đồng/ly

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

Dã quỳ nhuộm vàng phố núi, Đà Lạt vào mùa đẹp nhất năm

Thời sự

Hệ thống Chính trị

Địa phương

Sản phẩm