Theo PGS. TS. Nguyễn Hữu Huân, Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số từ năm 2026 trở đi và duy trì tốc độ đó trong 20 năm liên tục đến 2045 nhằm giúp Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình thì đòi hỏi cần lượng vốn rất lớn. Đặc biệt, ở Việt Nam, nền kinh tế là bank-based system - tức là hệ thống tăng trưởng và huy động vốn dựa vào ngân hàng khá nhiều. Hiện nay, tỷ lệ dư nợ trên GDP đã vượt 130%, cho thấy vai trò của ngân hàng trong hệ thống tài chính là rất lớn. Song nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Phân tích về điều này, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni cho rằng, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên, tăng trưởng tín dụng cần đạt khoảng 15%/năm từ nay đến 2030. Như vậy, trong 5 năm tới, tín dụng sẽ phải tăng gấp đôi. Khi đó, quy mô tài sản của ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan khác cũng sẽ tăng tương ứng. Mặc dù thị trường vốn được kỳ vọng phát triển để chia sẻ gánh nặng, nhưng TS. Nguyễn Tú Anh khẳng định, Việt Nam là hệ thống bank-based và xu hướng này sẽ duy trì trong vòng 15 năm tới, vì bản chất của thị trường vốn yêu cầu các cá nhân phải tự “deal rủi ro” (đánh giá, quản lý và giảm thiểu rủi ro). Điều này quá lớn, đặc biệt đối với thị trường đang phát triển như Việt Nam thì rủi ro càng lớn. Bởi hệ thống quản trị và pháp luật của chúng ta chưa đủ chặt chẽ để hạn chế rủi ro đó. “Do vậy, dù chúng ta rất mong muốn thị trường vốn phát triển để chia sẻ gánh nặng với hệ thống ngân hàng, nhưng trong trung hạn, tôi cho rằng vai trò của ngân hàng vẫn là quan trọng”, ông nhận định.
![]() |
| Hệ thống ngân hàng là động lực then chốt dẫn dắt tăng trưởng và đổi mới |
Đồng quan điểm, ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam khẳng định, vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo thậm chí sẽ còn lớn hơn trong giai đoạn tới. Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2020-2024, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 682 tỷ USD, trong đó khu vực trong nước phải đảm nhận phần lớn, tương đương hơn 250 tỷ USD mỗi năm. Điều này đồng nghĩa, hệ thống ngân hàng nội địa vẫn gánh phần lớn trách nhiệm cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Từ góc độ đầu tư, ông Quản Trọng Thành khẳng định, vai trò kênh dẫn vốn chủ lực của ngân hàng thậm chí sẽ còn lớn hơn trong giai đoạn tới. Trong 5 năm tới, nhu cầu vốn đầu tư ước khoảng 1.400 tỷ USD; trong đó vốn FDI chỉ 24-30 tỷ USD/năm, còn lại hơn 250 tỷ USD/năm phải đến từ nội địa. Điều này đồng nghĩa là dòng vốn cho tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng trong nước.
Song trong bối cảnh nhu cầu vốn cho nền kinh tế lên tới 1.400 tỷ USD trong 5 năm tới, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước, theo ông Thành, chắc chắn không đủ mà cần huy động được nguồn vốn từ nước ngoài. Để làm được điều đó, theo ông Thành, Việt Nam cần tiếp tục các nỗ lực như nâng hạng thị trường chứng khoán. Đây là một biện pháp quan trọng, cùng với việc phát triển thị trường trái phiếu cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, muốn thị trường trái phiếu đủ rộng, đủ sâu, có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài với chi phí vốn hợp lý, thì trước hết chúng ta phải nâng hạng tín nhiệm quốc gia. Muốn nâng hạng tín nhiệm quốc gia sức khỏe tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là khối ngân hàng thương mại Nhà nước phải được củng cố, thể hiện rõ qua việc cải thiện tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và cho phép họ chủ động hơn trong việc quản lý lợi nhuận.
Một yếu tố nữa không kém phần quan trọng để góp phần hiện thực hoá mục tiêu tăng trưởng kinh tế 10% trong năm tới, theo TS. Tú Anh sẽ phụ thuộc rất lớn vào mức độ thành công của quá trình số hóa, giúp các quyết định trong nền kinh tế trở nên nhanh chóng và chính xác hơn. Hiện nay, hệ thống ngân hàng và tài chính đang đi đầu trong chuyển đổi số, từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa. Ví dụ như trong thanh toán, định danh điện tử (eKYC) giúp kích thích các lĩnh vực khác cũng phải chuyển đổi số theo như số hoá trong kế toán, dẫn đến số hoá trong sản xuất. Vị chuyên gia này cho biết thêm, các ngân hàng đang phát triển mạnh hệ thống API nền tảng chia sẻ dùng chung giúp nhiều sáng kiến tài chính mới ra đời. “Trong tương lai, tôi tin rằng các ngân hàng sẽ ứng dụng ngày càng nhiều hơn các hợp đồng thông minh (smart contracts), những hợp đồng tự động. Điều này sẽ giúp ngân hàng ngày càng có lợi thế hơn”, ông Tú Anh nhấn mạnh.
Bình luận về vấn đề này, ông Quản Trọng Thành cho biết ở góc độ chuyển đổi số, ngân hàng là ngành có dữ liệu cấu trúc tốt, có nhân lực và gần với cơ quan quản lý nên có khả năng đi đầu trong quá trình chuyển đổi số. Hiện nay, ngân hàng là ngành đang áp dụng chuyển đổi số nhiều nhất, cả trong vận hành nội bộ lẫn cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Theo ông Thành, gần đây có một số ngân hàng như ACB, MB… rất tích cực trong việc hỗ trợ các hộ kinh doanh chuẩn chỉ về mặt số liệu. Chính những dữ liệu này sẽ là nguồn thông tin đầu vào để các ngân hàng sử dụng hệ thống big data, trí tuệ nhân tạo (AI) nhằm xây dựng các mô hình định giá tín nhiệm. Qua đó, mở ra không gian đầu tư sẽ được mở rộng dần lên.
Nguồn: https://thoibaonganhang.vn/ngan-hang-tru-cot-dan-von-cho-tang-truong-trong-thap-ky-toi-173241.html







Bình luận (0)