1. Người thầy nào được mệnh danh là "Túi khôn của thời đại"?
- Chu Văn An
0%
- Nguyễn Bỉnh Khiêm
0%
- Lê Quý Đôn
0%
Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784), quê làng Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên).
Ông là con cả của tiến sĩ Lê Phú Thứ (sau đổi thành Lê Trọng Thứ) - người từng giữ chức Hình bộ Thượng thư.
Từ nhỏ, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng ham học và có trí nhớ phi thường. Mới 2 tuổi ông đã đọc được chữ, 5 tuổi thuộc nhiều bài trong Kinh Thi. Đến 10 tuổi, ông học sử và nhớ 80-90 chương mỗi ngày, đồng thời nghiên cứu Kinh Dịch. Năm 14 tuổi, ông đọc hết Ngũ Kinh, Tứ Thư, Sử truyện, Chư tử và có thể làm liền 10 bài phú không cần nháp.
Cũng năm ấy, ông theo cha ra Thăng Long học với tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Nhờ tư chất vượt trội, ông đỗ Giải nguyên năm 17 tuổi, rồi đỗ Hội nguyên và Bảng nhãn năm 27 tuổi (khoa thi không lấy Trạng nguyên).
Sau khi đỗ đạt, Lê Quý Đôn giữ nhiều chức vụ quan trọng dưới triều Lê - Trịnh, nổi tiếng thanh liêm, cương trực và uyên bác. Ông từng được cử đi điều tra đời sống dân chúng và nạn tham nhũng ở nhiều địa phương như Sơn Nam, Lạng Sơn.
Trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc (1760-1762), ông gặp gỡ nhiều trí thức, bàn luận học thuật và tiếp cận thêm các sách vở, trong đó có tác phẩm phương Tây về địa lý, ngôn ngữ và thủy văn.
Nhờ trải nghiệm rộng và học vấn sâu, Lê Quý Đôn được người đương thời tôn xưng là “túi khôn của thời đại”.
2. Người thầy nào được tôn vinh là "Vạn thế sư biểu" - người thầy chuẩn mực muôn đời?
- Chu Văn An
0%
- Nguyễn Đình Chiểu
0%
- Nguyễn Bỉnh Khiêm
0%
Chu Văn An (1292-1370) sinh tại làng Quang, Thanh Trì, Hà Nội.
Ngay từ nhỏ, ông nổi tiếng hiếu học, thông minh và có học vấn uyên thâm. Ông đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan. Ông mở trường Huỳnh Cung, dạy học trò từ bậc ấu học đến đại học, đồng thời rèn luyện đạo đức, nhân cách và trách nhiệm với đất nước.
Với tài năng và đức độ, Chu Văn An được mời làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, trực tiếp kèm cặp Thái tử và biên soạn giáo trình Nho học. Khi triều chính rối ren, ông dâng “Thất trảm sớ” xin trừng trị gian thần nhưng không được chấp thuận, bèn về ẩn cư tại Chí Linh, Hải Dương, tiếp tục dạy học, chữa bệnh và sáng tác văn thơ.
Chu Văn An là tấm gương sáng về tài năng, đạo đức và tâm huyết với sự nghiệp giáo dục. Ông được vua Trần Nghệ Tông truy tặng tước hiệu Văn Trinh Công, thụy Khánh Tiết và được thờ tại Văn Miếu cùng nhiều di tích khác.
Sinh thời, ông được dân chúng tôn là "Vạn thế sư biểu", nghĩa là người thầy chuẩn mực muôn đời.
3. Người thầy nào được các môn sinh tôn là "Tuyết Giang phu tử"?
- Nguyễn Bỉnh Khiêm
0%
- Lương Thế Vinh
0%
- Võ Trường Toản
0%
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), tên khai sinh Nguyễn Văn Đạt, hiệu Bạch Vân Am cư sĩ, sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay thuộc Hải Phòng).
Xuất thân trong gia đình hiếu học, ông sớm bộc lộ tư chất thông minh và được thầy Lương Đắc Bằng trực tiếp dạy dỗ.
Trong bối cảnh nhà Lê suy thoái, đến năm 1535 ông mới dự thi và đỗ đầu cả ba kỳ Hương - Hội - Đình, trở thành Trạng nguyên. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng, được phong Trình Tuyền Hầu rồi Trình Quốc Công, dân gian tôn gọi Trạng Trình.
Là học giả uyên thâm, am hiểu Kinh Dịch, ông nhiều lần đưa ra lời khuyên chiến lược cho các chúa Trịnh, vua Mạc và Nguyễn Hoàng, góp phần định hướng tình hình chính trị đương thời.
Từ sớm, ông mở trường dạy học bên sông Tuyết Giang; sau khi từ quan, ông tiếp tục dạy tại Bạch Vân Am, thu hút đông học trò và được tôn xưng là “Tuyết Giang Phu Tử”, biểu tượng của trí tuệ và đức độ.
4. Người thầy nào được ví là "Cụ tổ ngành giáo dục Nam Kỳ"?
- Nguyễn Đình Chiểu
0%
- Võ Trường Toản
0%
- Phan Bội Châu
0%
Võ Trường Toản (?-1792), hiệu Sùng Đức, người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc TPHCM).
Ông là nhà nho, nhà giáo tài ba, đức độ. Trong thời chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh, ông không đi thi làm quan mà chọn ẩn dật, mở trường dạy học tại Hòa Hưng.
Lối dạy của Võ Trường Toản rất khoa học, dựa trên phương pháp “Nghĩa lý để giáo hóa” và nhấn mạnh “Tri tôn dưỡng khí” - nghĩa là học để làm việc nghĩa và cống hiến cho đất nước. Ông quan niệm rằng lòng nhân nghĩa là giá trị trường tồn và cần gìn giữ trong xã hội biến động.
Ông yêu cầu học trò thấu triệt nội dung sách, không học vẹt từng câu chữ. Nhiều học trò của ông sau này đỗ đạt và nổi danh như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định (gọi là “Gia Định tam gia thi”)...
Võ Trường Toản được mệnh danh là "Cụ tổ ngành giáo dục Nam Kỳ". Ông mất ngày 27/7/1792. Chúa Nguyễn ban từ hiệu “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ Tiên sinh".
5. "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm" là câu thơ nổi tiếng của người thầy nào?
- Nguyễn Thiếp
0%
- Nguyễn Đình Chiểu
0%
- Cao Bá Quát
0%
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1/7/1822 tại làng Tân Thới, Gia Định (nay thuộc TPHCM), trong một gia đình nhà nho. Năm 1833, ông ra Huế học và đỗ Tú tài năm 1843.
Năm 1848, trên đường về quê chịu tang mẹ, ông mắc bệnh nặng và mù lòa. Dù vậy, ông vẫn bền bỉ dạy học, làm thuốc và giúp đỡ dân nghèo, sống giản dị cùng vợ tại Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu dùng văn thơ để giáo hóa và khơi dậy lòng yêu nước chống Pháp. Truyện thơ Lục Vân Tiên (1851) ca ngợi trung nghĩa; các tác phẩm Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước, thương dân và tinh thần kháng chiến.
Ngòi bút của ông phản ánh thời kỳ đất nước bị xâm lược, lên án tội ác thực dân và sự nhu nhược của triều đình. Dù mù lòa, ông vẫn giảng dạy, bốc thuốc và sáng tác cho đến cuối đời. Ông mất ngày 3/7/1888 tại Ba Tri, Bến Tre, an táng tại quê vợ.
Câu thơ “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm” nằm trong bài Than đạo của ông.
Nguồn: https://vietnamnet.vn/nguoi-thay-nao-cua-viet-nam-duoc-menh-danh-la-tui-khon-cua-thoi-dai-2463682.html






Bình luận (0)