Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cũng không nằm ngoài xu hướng này khi mà các ngành kinh tế, công nghiệp đều hướng đến việc số hóa quy trình, tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao năng suất lao động.
Các chuyên gia cho rằng, nhân lực trong kỷ nguyên số phải có khả năng làm việc trong môi trường toàn cầu và số hóa, thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ. Cho nên, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành nhiệm vụ cấp bách, nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, đồng thời tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ chuyển đổi số và đẩy mạnh quốc tế hóa, các trường đại học đã có sự chủ động trong việc cập nhật và tích hợp công nghệ mới vào cả giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Tiến sĩ Đinh Thị Thu Hồng, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Để trở thành đầu tàu đổi mới sáng tạo của Việt Nam và trung tâm đào tạo quốc tế, thành phố cần đặt trọng tâm vào đào tạo nhân lực chất lượng cao gắn liền với quốc tế hóa. Theo Tiến sĩ Đinh Thị Thu Hồng, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, để nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ chuyển đổi số và đẩy mạnh quốc tế hóa, các trường đại học đã có sự chủ động trong việc cập nhật và tích hợp công nghệ mới vào cả giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Một số trường đã xây dựng các phòng thí nghiệm số, trung tâm ứng dụng công nghệ thông tin và các dự án hợp tác nghiên cứu với các doanh nghiệp hàng đầu trong và ngoài nước. Điều này cho phép sinh viên không chỉ được học tập trên lý thuyết mà còn có cơ hội thực hành, trải nghiệm các công nghệ tiên tiến, từ quản lý dữ liệu cho đến phân tích thống kê và phát triển phần mềm.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao đã trở thành yếu tố cốt lõi quyết định năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của các đô thị lớn.
Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, tài chính và khoa học-công nghệ hàng đầu cả nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới khi được mở rộng không gian đô thị thông qua việc sáp nhập với các tỉnh Bình Dương (cũ) và Bà Rịa-Vũng Tàu (cũ).
Sự mở rộng này không chỉ tạo ra cơ hội hình thành một vùng đô thị-dịch vụ-công nghiệp liên kết, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc tái cấu trúc và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực số.
Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận, thách thức lớn đặt ra là sự chênh lệch giữa nhu cầu nhân lực số và khả năng đáp ứng của hệ thống giáo dục đại học hiện nay. Một trong những hạn chế cốt lõi là sự thiếu gắn kết giữa hệ thống đào tạo và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.
Chương trình giáo dục ở nhiều trường đại học, cao đẳng vẫn thiên về lý thuyết và thi cử, trong khi chưa chú trọng đến kỹ năng thực hành và khả năng thích ứng trong môi trường quốc tế. Kết quả là nhiều doanh nghiệp phản ánh phải đào tạo lại nhân viên mới do năng lực chuyên môn không đáp ứng yêu cầu công việc.
Theo Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh (FALMI), riêng năm 2025, Thành phố Hồ Chí Minh cần bổ sung khoảng 330 nghìn lao động mới, trong đó phần lớn là các ngành dịch vụ có yêu cầu kỹ năng chuyên sâu như công nghệ thông tin, tài chính-ngân hàng, logistics, thương mại điện tử…
Các chuyên gia cho rằng, để khắc phục tình trạng này, Thành phố Hồ Chí Minh và các đơn vị liên quan cần có những giải pháp mang tính đột phá, bao gồm đổi mới căn bản giáo dục đại học, xây dựng cơ chế hợp tác hiệu quả giữa nhà trường-doanh nghiệp-chính quyền, và triển khai chiến lược phát triển kỹ năng phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế số và hội nhập quốc tế.
Đồng thời, áp dụng khung tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp quốc tế nhằm tăng tính minh bạch và khả năng hội nhập của nguồn nhân lực. Đầu tư mạnh mẽ vào kỹ năng số và năng lực đổi mới sáng tạo, coi đây là động lực chính để phát triển kinh tế số, cũng như phát triển chính sách học tập suốt đời và cơ chế hỗ trợ upskilling/reskilling để đảm bảo tính thích ứng lâu dài của lực lượng lao động.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Lưu An, Trường đại học Thủ Dầu Một cùng cộng sự cho rằng: Việc hình thành một hệ sinh thái đào tạo-nghiên cứu-đổi mới sáng tạo, nơi các trường đại học đóng vai trò nòng cốt, là điều kiện tiên quyết để đáp ứng những thách thức và cơ hội của kỷ nguyên số, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa.
Trong đó, các cơ sở giáo dục đại học cần thực hiện tái cấu trúc chương trình đào tạo theo hướng lồng ghép các chương trình kỹ năng số, phân tích dữ liệu, quản trị dịch vụ, kỹ năng tư duy phản biện; tăng cường học phần tích hợp doanh nghiệp, cũng như đẩy mạnh đánh giá năng lực theo chuẩn nghề nghiệp quốc tế…
Trong khi đó, Tiến sĩ Đinh Thị Thu Hồng nhấn mạnh: Yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn phải thành thạo kỹ năng số, tư duy dữ liệu, bảo mật, AI.
Đồng thời, phải có tư duy toàn cầu, có khả năng làm việc trong môi trường đa quốc gia, có khả năng tự học, cập nhật liên tục kiến thức thay đổi nhanh trong kỷ nguyên số, phải tham gia vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn cầu…
Vì vậy, các chính sách cần hướng đến thực hiện chiến lược phát triển nhân lực số, chú trọng các lĩnh vực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, an ninh mạng, công nghệ tài chính, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ngoài ra, cần đầu tư hạ tầng số cho giáo dục thông qua phát triển đại học số, hệ thống dữ liệu mở, nền tảng đào tạo trực tuyến tích hợp AI.
Các trường đại học cần có chiến lược quốc tế hóa và chuyển đổi số toàn diện, cả trong đào tạo, nghiên cứu, và quản trị; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp và chú trọng các hoạt động đổi mới sáng tạo, để mỗi trường là một “innovation hub”, kết nối sinh viên-doanh nghiệp-nhà đầu tư…
Nguồn: https://nhandan.vn/nguon-nhan-luc-so-nhan-to-quyet-dinh-trong-ky-nguyen-so-post923357.html






Bình luận (0)