Việc áp dụng công nghệ số vào nông nghiệp đang mở ra những cơ hội lớn trong việc cải tiến kỹ thuật canh tác, giám sát môi trường và quản lý dữ liệu. Tuy nhiên, việc triển khai chuyển đổi số cũng đặt ra không ít khó khăn, từ vấn đề về hạ tầng công nghệ cho đến sự thiếu hụt nguồn lực đào tạo và thay đổi tư duy trong cộng đồng nông dân. Chính vì vậy, việc hiểu rõ các xu hướng chuyển đổi số và các thách thức kèm theo sẽ là yếu tố quan trọng để ngành Nông nghiệp có thể áp dụng hiệu quả các giải pháp công nghệ trong tương lai.
Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động.
Thực trạng chuyển đổi số trong nông nghiệp hiện nay
Nông nghiệp đóng vai trò trụ cột trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, ngành này đang đối mặt với nhiều thách thức như biến đổi khí hậu, cạnh tranh quốc tế và áp lực gia tăng năng suất. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi số không chỉ giúp giải quyết các bài toán khó mà còn mang lại cơ hội lớn để nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững.
Ông Nguyễn Lân Hùng, Tổng thư ký Hội các nghành sinh học Việt Nam: Đến giai đoạn này, đất nước thay đổi rất nhanh, tôi đi rất nhiều tỉnh, thấy rất nhiều vùng nông thôn, không khác gì thành phố, nhà cửa mọc lên nhưng mà chưa phải là toàn thể. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ý kiến, đến giai đoạn này, dứt khoát dân phải giàu giàu, làm thế nào dân giàu, và cái vùng khó nhất, cái này mới là nông thôn. Làm thế nào nông thôn thay đổi, đặc biệt là vùng miền núi, bây giờ những vùng khó ấy, phải vươn lên, đất nước phải giàu. Thì ý nghĩ đấy là suy nghĩ số một của đồng chí Tổng Bí thư, mà chúng ta phải thực hiện. Hiện nay, có rất nhiều cách nghĩ, cách làm, cách suy nghĩ, rất nhiều mô hình các địa phương, nhưng mà chưa phải toàn diện. Chúng ta vẫn còn có những vùn, còn có khó khăn.
Ông Nguyễn Lân Hùng - Tổng thư ký Hội các nghành sinh học Việt Nam.
Chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ dừng lại ở việc áp dụng các công nghệ hiện đại như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) mà còn hướng tới việc xây dựng một hệ sinh thái số toàn diện. Hệ sinh thái này kết nối người nông dân, doanh nghiệp, cơ quan quản lý và các bên liên quan để tối ưu hóa quá trình sản xuất, phân phối và tiêu thụ.
Trong những năm gần đây, chuyển đổi số trong ngành Nông nghiệp Việt Nam đã ghi nhận nhiều bước tiến tích cực. Về tổng thể, chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp đã bắt đầu lan rộng, không chỉ tại các doanh nghiệp quy mô lớn mà còn từng bước thâm nhập vào các hợp tác xã, hộ nông dân dù ở mức độ chưa đồng đều.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp lớn, như: VinEco (thuộc Vingroup), TH True Milk, Dabaco, Hoàng Anh Gia Lai, Nafood Group… đã chủ động triển khai công nghệ số vào toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp từ quản lý vùng nguyên liệu, giám sát canh tác, kiểm soát chất lượng đến truy xuất nguồn gốc và phân phối. Các mô hình nông nghiệp công nghệ cao ứng dụng IoT, AI và dữ liệu lớn đã cho thấy hiệu quả rõ rệt: tiết giảm chi phí đầu vào, giảm nhân công, tăng năng suất cây trồng vật nuôi; đồng thời, nâng cao năng lực cạnh tranh và xuất khẩu sản phẩm.
TS. Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường:
Hiện nay Đảng, Nhà nước, cụ thể Ban chỉ đạo Trung ương thực hiện Nghị quyết 57 đã yêu cầu ngành Nông nghiệp và Môi trường đầu tiên tập trung tiên quyết là phải xây dựng được cơ sở dữ liệu của ngành Nông nghiệp và Môi trường. Đấy là yếu tố đầu tiên chúng ta muốn chuyển đổi số phải có dữ liệu.
Cái thứ hai, chúng ta phải có cơ sở hạ tầng để làm sao từng đơn vị, từ người sản xuất đến doanh nghiệp và chúng ta phải xuất phát từ yêu cầu lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong việc cần phải chuyển đổi số, trong việc minh bạch quản lý thông tin từ khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm phải minh bạch theo truy xuất đấy thì nó phải xuất phát từ yêu cầu lợi ích của người dân và của doanh nghiệp.
TS. Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Một trong những điểm sáng đáng ghi nhận là việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong tiêu thụ nông sản, đặc biệt trong giai đoạn đại dịch Covid-19. Các địa phương như Bắc Giang, Hải Dương (cũ) đã tổ chức thành công các hội nghị trực tuyến kết nối cung cầu, đồng thời đưa nông sản địa phương lên các sàn thương mại điện tử lớn như Postmart, Voso, Tiki, Lazada… để tiêu thụ hiệu quả vải thiều, hành tỏi, thanh long, cam, bưởi… Điều này không chỉ giúp giải quyết đầu ra trong bối cảnh gián đoạn chuỗi cung ứng mà còn mở ra kênh phân phối bền vững hơn cho nông sản Việt. Tính đến nay, gần 50.000 sản phẩm nông nghiệp đã được đưa lên sàn thương mại điện tử với hàng triệu lượt truy cập và tiêu thụ ổn định, góp phần khẳng định vai trò thiết yếu của công nghệ số trong thúc đẩy nông nghiệp thương mại hiện đại.
Ông Bùi Quang Phát - Phó GĐ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Ninh: Phải khẳng định rằng chuyển đối số và ứng dụng khoa học công nghệ là khâu then chốt để phát triển nền nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gây gắt như hiện nay, đất dai, nguồn lao động cũng hạn chế. Do vậy, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đối số trong lĩnh vực nông nghiệp thực sự rất là cần thiết. Trong thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh đã triển khai nhiều hoạt động, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đối số, và đặc biệt là phát triển nhiều sản phẩm ocop. Như sản phẩm ocop 5 sao chúng tôi đã phát triển và xuất khẩu ra thị trường thế giới trên 30 nước, đặc biệt là những thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu. Hiện tại chúng tôi có 1.520 mô hình sản xuất công nghệ cao.
Ông Bùi Quang Phát - Phó GĐ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Ninh.
Trong lĩnh vực sản xuất, các ứng dụng của IoT, AI và công nghệ sinh học đang ngày càng trở nên phổ biến. Trước tiên, việc áp dụng các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) đã mang lại những thay đổi đáng kể trong quy trình sản xuất. Tại nhiều địa phương, nhiều trang trại rau và hoa đã lắp đặt các thiết bị cảm biến thông minh để đo lường chính xác các chỉ số như độ ẩm đất, nhiệt độ, ánh sáng, và mức độ dinh dưỡng, hệ thống tưới. Nhờ đó, người nông dân có thể theo dõi và điều chỉnh kịp thời các yếu tố môi trường, giúp cây trồng phát triển tối ưu.
Anh Trần Xuân Đăng - Phường Tân An tỉnh Bắc Ninh: Phải nói áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công nghệ cao mang lại hiệu quả rất là rõ rệt. Nó tạo điều kiện tốt nhất trong việc sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất chất lượng, tạo ra giá bán tốt hơn so với sản xuất thông thường. Ở mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đây tôi đã áp dụng rất là nhiều, trong đó đầu tiên phải kể đến sản xuất trong hệ thống nhà lưới nhà màng. Thứ 2 nữa là hệ thống tưới bán tự động. Thứ 3 nữa là công nghệ phân bón tưới, phân bón và bón phân hữu cơ và phân chất lượng cao để sản xuất ra, tạo ra sản phẩm an toàn.
Anh Trần Xuân Đăng - Phường Tân An tỉnh Bắc Ninh.
Công nghệ blockchain cũng đang được ứng dụng trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp. Tiêu biểu, Công ty TNHH Trường Hải (THACO) đã triển khai hệ thống truy xuất nguồn gốc cho các sản phẩm trái cây xuất khẩu ở Tây Nguyên. Mỗi sản phẩm khi được thu hoạch sẽ được gắn một mã QR chứa toàn bộ thông tin từ khâu sản xuất đến phân phối. Điều này không chỉ giúp người tiêu dùng dễ dàng kiểm tra nguồn gốc, chất lượng sản phẩm mà còn tạo lòng tin đối với thị trường trong và ngoài nước.
Ngoài ra, các nền tảng số và ứng dụng di động đã hỗ trợ nông dân tiếp cận thông tin về thị trường, giá cả, thời tiết và kỹ thuật canh tác một cách nhanh chóng. Cụ thể, ứng dụng "Nông nghiệp 4.0" đã giúp nông dân ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ theo dõi tình hình dịch hại và thời tiết, cũng như trao đổi kinh nghiệm với những người trồng trọt khác. Một số ứng dụng còn kết nối trực tiếp nông dân với người mua, giúp giảm sự phụ thuộc vào các khâu trung gian và nâng cao thu nhập cho người sản xuất.
Các nền tảng số và ứng dụng di động đã hỗ trợ nông dân tiếp cận thông tin về thị trường, giá cả, thời tiết và kỹ thuật canh tác một cách nhanh chóng.
Một trong những thách thức lớn nhất là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng đồng bộ các giải pháp công nghệ và xây dựng quy trình sản xuất quy mô lớn. Việc đầu tư vào hệ thống tự động hóa hay ứng dụng Internet vạn vật (IoT) đòi hỏi chi phí cao, trong khi lợi nhuận từ mô hình nhỏ lẻ không đủ để tái đầu tư.
Bên cạnh đó, hạ tầng công nghệ thông tin ở nhiều vùng nông thôn chưa đồng bộ. Việc thiếu cơ sở hạ tầng công nghệ không chỉ làm chậm quá trình tiếp cận thông tin của nông dân mà còn khiến việc giám sát, điều khiển từ xa trở nên khó khăn.
Chính sách hỗ trợ chuyển đổi số hiện còn phân tán, chưa có cơ chế tài chính đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp và hộ nông dân đầu tư vào công nghệ. Việc thiếu hành lang pháp lý cụ thể cho các mô hình sản xuất số như nông nghiệp hợp đồng thông minh, giao dịch blockchain hoặc logistics số…cũng đang làm chậm quá trình phổ biến và nhân rộng.
Bước đi chiến lược trong thời gian tới
Quán triệt thực hiện định hướng của Đảng và Nhà nước, gần đây nhất là Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ngành Nông nghiệp và Môi trường xác định chuyển đổi số là con đường tất yếu để đạt mục tiêu tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững.
Chiến lược giai đoạn 2025 - 2035 được xây dựng với các mục tiêu rõ ràng, đột phá. Theo đó, đến năm 2030, ngành đặt mục tiêu 100% dịch vụ công trực tuyến phục vụ nông dân và doanh nghiệp hoạt động hiệu quả; toàn bộ quy trình quản lý, điều hành diễn ra trên môi trường số; dữ liệu nông nghiệp được số hóa, kết nối và chia sẻ với cơ sở dữ liệu quốc gia. Đặc biệt, 80% hoạt động giám sát, dự báo, cảnh báo thời tiết, môi trường, thiên tai, sâu bệnh sẽ được vận hành bằng công nghệ dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo.
Ông Nguyễn Xuân Việt - CTHĐQT, GĐ Công ty CP Xuất nhập khẩu Vicopo: Chúng tôi cũng phải nâng cao vai trò trách nhiệm đối với người tiêu dùng, đối với thị trường xuất khẩu. Chính vì vậy, chúng tôi luôn luôn tiếp cận với các vụ, các viện, đặc biệt là các bộ để làm sao mà tiếp cận được nền khoa học học kỹ thuật cao nhất. Trong quá trình thực hiện được sản xuất siêu biến, chúng tôi đã áp dụng học kỹ thuật từ những khâu trồng trọt, phổ biến cùng bà con làm sao đẩy được một. Khi áp dụng vào thì năng suất chất lượng của cây nguyên liệu cao hơn, các tỷ lệ thu hồi lớn hơn và đem lại cái giá trị cao đầu tiên trong nguyên liệu cho bà con nông dân.
Ông Nguyễn Xuân Việt - CTHĐQT, GĐ Công ty CP Xuất nhập khẩu Vicopo.
Ngành cũng hướng tới việc hình thành hệ sinh thái kinh tế số nông nghiệp, trong đó 10% GDP ngành đến từ các hoạt động kinh tế số: thương mại số, nông nghiệp thông minh, truy xuất nguồn gốc blockchain, thương mại điện tử, dịch vụ số hóa chuỗi cung ứng… Đồng thời, phấn đấu 80% nông dân sử dụng hiệu quả nền tảng số, giúp thu hẹp khoảng cách số và nâng cao trình độ sản xuất.
PGS. TS Đặng Văn Đông - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu rau quả Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam:
Như chúng ta biết, Nông nghiệp trong những năm vừa qua phát triển vượt bậc, đặc biệt là lĩnh vực rau hoa quả của chúng tôi cũng đã phát triển rất là mạnh mẽ. Xuất khẩu năm 2024 là 7,2 tỷ USD, nhưng năm nay dự kiến đến 8 tỷ USD. Trong thành tựu đó, chắc chắn một phần không nhỏ là đó là cái đóng góp của khoa công nghệ. Chính những khoa công nghệ đã thay đổi được cục diện phát triển nông nghiệp chúng ta. Ở đây, thay đổi đó giống mới. Một loạt các cái giống mới rau hoa quả đã được đưa vào sản xuất. Một loạt các cái công nghệ đã được ứng dụng trong sản xuất khắp mọi biển đất nước. Đơn giản như lĩnh vực hoa cây cành, chúng ta cũng thấy điều rất rõ. Đây là các cái giống hoa lan hồ điệp mà vừa là tuyển chọn từ những nước ngoài, nhưng vừa là do bản thân các nhà khoa học trong nước lai tạo ra để cho nó phù hợp với những điều kiện thực hiện ở đây. Ngoài bộ giống mà phù hợp, thì chúng tôi đã nghiên cứu một loạt các cái quy trình công nghệ. Ví dụ như đây là một cái quy trình công nghệ, ứng dụng công nghệ cao trong cái việc sản xuất lan hồ điệp này.
PGS. TS Đặng Văn Đông - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu rau quả Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
Tầm nhìn đến năm 2035 càng thể hiện rõ sự chuyển dịch sang quản trị thông minh dựa trên dữ liệu thời gian thực. Nông nghiệp sẽ áp dụng mạnh mẽ các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), Blockchain, IoT, Digital Twin (mô hình song sinh số) để mô phỏng, dự báo và tối ưu hóa sản xuất, chế biến, tiêu thụ. Khi đó, tỷ trọng kinh tế số trong nông nghiệp đạt tối thiểu 20% và 90% nông dân làm chủ các công nghệ số trong sản xuất.
Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã đề ra những giải pháp trọng tâm. Ở vị trí ưu tiên sẽ là an toàn thông tin, an ninh mạng. Ngành triển khai đầy đủ mô hình an toàn thông tin bốn lớp, vận hành hệ thống giám sát chuyên sâu, kết nối với Trung tâm an toàn không gian mạng quốc gia, bảo đảm dữ liệu nông nghiệp luôn được bảo vệ trước các nguy cơ tấn công mạng.
Ông Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện chiến lược chính sách Nông nghiệp và Môi trường:
Đối với nông nghiệp Việt Nam, trong suốt thời gian qua thì khoa học công nghệ là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Nhờ có khoa học công nghệ mà chúng ta đã đổi mới từ câu chuyện giống đến các công nghệ canh tác, công nghệ bảo quản, chế biến. Và nhờ khoa học công nghệ mà trong bối cảnh đất nước chúng ta đất đai hạn hẹp, lao động thì có xu hướng giảm nhưng năng suất của chúng ta, của các nhà hàng nông sản rất là tốt, sản lượng cũng đã tăng.
Ông Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Nông nghiệp và Môi trường.
Hiện nay đối với các nước trên thế giới năng suất một số cây trồng chính của chúng ta như lúa gạo, cà phê, tiêu, điều đều có một số xu hướng rất là cao. Bên cạnh đến với một số các sản phẩm như thủy sản, cá tra, chúng ta năng suất cũng rất là cao, cao gần như nhất thế giới. Còn lại thì một số các cây trồng khác thì chúng ta cũng có nhiều khoa học công nghệ đóng góp trong thời gian qua và chúng ta đã có những nghiên cứu và có những năng suất và chất lượng cũng rất là cao. Cộng với đó thì nhiều khoa học công nghệ, mà gần đây nữa thì các công nghệ tiền tiến chúng ta được áp dụng, công nghệ số, công nghệ 4.0 đã đưa vào giúp nâng cao kỳ hiệu quả, nâng cao năng suất, giảm dự do.
Cùng với đó, thúc đẩy việc hoàn thiện thể chế và khung pháp lý; tạo điều kiện cho dữ liệu được chia sẻ an toàn, công nghệ mới như AI hay blockchain được thử nghiệm theo cơ chế sandbox, thủ tục hành chính được tái cấu trúc toàn diện.
Tập trung phát triển dữ liệu mở, dữ liệu dùng chung. Hệ thống cơ sở dữ liệu nông nghiệp được xây dựng thống nhất từ trung ương đến địa phương, bảo đảm dữ liệu sạch, liên thông và cập nhật theo thời gian thực. Đây sẽ là nền tảng cho dịch vụ công số, thị trường số và sản xuất thông minh.
Ngành cũng sẽ chú trọng đầu tư hạ tầng số hiện đại, bao gồm: trung tâm dữ liệu xanh đạt tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống IoT, cảm biến, thiết bị thông minh, hạ tầng điện toán đám mây và các nền tảng AI giúp phân tích dữ liệu lớn. Để phát triển nguồn nhân lực số, ngành sẽ đào tạo cán bộ quản lý và kỹ thuật về kỹ năng số, khoa học dữ liệu, an toàn thông tin và AI. Đào tạo nông dân sử dụng nền tảng số trong sản xuất, kinh doanh, quản lý trang trại và truy xuất nguồn gốc.
Về vấn đề tài chính, cần có các chính sách hỗ trợ vốn vay ưu đãi, giảm bớt thủ tục hành chính để nông dân dễ dàng tiếp cận hơn. Các mô hình hợp tác xã, tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết cũng cần được khuyến khích để chia sẻ chi phí đầu tư và tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường.
Theo TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Hiện nay, Đảng, Nhà nước đã chỉ đạo hoàn thiện cơ sở pháp lý theo hướng loại bỏ, cắt giảm tối đa tất cả các thủ tục hành chính bởi vì doanh nghiệp rất là quan ngại trong việc đó. Thứ hai, Nhà nước đã có nghị định, có đối tác công tư rất rõ ràng từ luật xong đến nghị định trong việc ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất. Bây giờ đã có cơ chế đấy rồi phải tạo mọi điều kiện đồng hành cùng doanh nghiệp để doanh nghiệp thấy sẵn sàng. Giấy tờ, pháp luật, quy định đã rõ nhưng cái chính là tổ chức triển khai thực hiện phải có sự vào cuộc của các cơ quan quản lý nhà nước.
Cuối cùng, việc xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia vào nông nghiệp là rất cần thiết. Các doanh nghiệp có thể cung cấp các giải pháp công nghệ giá rẻ, phù hợp với từng quy mô sản xuất. Bên cạnh đó, việc hợp tác công - tư để phát triển những mô hình thí điểm, từ đó nhân rộng ra cả nước, sẽ góp phần tạo ra hệ sinh thái nông nghiệp thông minh bền vững.
Với những giải pháp đồng bộ, sự hợp tác giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân, quá trình chuyển đổi sẽ mở ra cơ hội lớn, giúp xây dựng nền nông nghiệp hiện đại và bền vững, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Tạo nền tảng vững chắc để đưa nông nghiệp Việt Nam phát triển nhanh hơn, xanh hơn và bền vững hơn.
Nguồn: https://vtv.vn/nong-nghiep-so-khong-the-thieu-trong-ky-nguyen-cong-nghe-40-100251216231634947.htm






Bình luận (0)