
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Đinh Thị Phương Khanh (bên trái) kiểm tra tình hình sản xuất năm 2025 tại xã Tuyên Bình
- PV: Sau thời gian thực hiện, Chương trình Phát triển NNƯDCNC gắn với tái cơ cấu ngành NN giai đoạn 2021-2025 đã được rút ra một số bài học kinh nghiệm gì, thưa bà?
Bà Đinh Thị Phương Khanh: Với những thành quả đáng tự hào từ NNƯDCNC, ngành NN tiếp tục khẳng định vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế tỉnh, ngay cả trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức. Ngành đã chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hiệu quả, giá trị cao; hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, ƯDCNC và sản xuất theo tiêu chuẩn GAP. Qua đó, góp phần duy trì đà tăng trưởng kinh tế của tỉnh qua các năm; năng suất, chất lượng các sản phẩm chủ lực cũng ngày càng khẳng định được vị thế.
Cụ thể, sản lượng lúa năm 2025 ước đạt trên 4 triệu tấn, tăng 14% so với năm 2020, trong đó 70% là lúa chất lượng cao. Sản lượng mì đạt trên 2 triệu tấn, cao su 189.000 tấn, đều tăng so với giai đoạn trước. Diện tích trồng các loại rau 31.000ha, năng suất ước đạt 186 tạ/ha; chăn nuôi phát triển theo hướng trang trại tập trung với 1.520 trang trại và 8.362ha nuôi thủy sản, sản lượng 157.882 tấn,…
Để đạt kết quả như trên, ngành NN nhận được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh công tác truyền thông thay đổi tập quán canh tác của người dân. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách ban hành đúng thời điểm, quan tâm tháo gỡ khó khăn kịp thời, kịp lúc, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng tích cực.
- PV: Bà cho biết thêm những khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình Phát triển NNƯDCNC gắn với tái cơ cấu ngành NN giai đoạn 2021-2025?
Bà Đinh Thị Phương Khanh: Bên cạnh những kết quả, quá trình thực hiện Chương trình vẫn tồn tại một số khó khăn, hạn chế. Việc thành lập hợp tác xã (HTX) gặp nhiều khó khăn, một số HTX chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất, trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn yếu, tham gia vào chuỗi liên kết giá trị không nhiều, chưa thật sự là "cầu nối" vững chắc liên kết giữa sản xuất với tiêu thụ nông sản. Các HTX chưa chủ động tháo gỡ khó khăn và chưa thực hiện vai trò tập hợp, liên kết nông dân gắn bó với HTX.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất NN được quan tâm đầu tư nhưng nhiều nơi vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Thiếu quỹ đất sạch để thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp (DN) để làm đầu tàu dẫn dắt cho ngành NN. Số DN NNƯDCNC còn ít; các DN chưa có nhiều hoạt động nghiên cứu ứng dụng công nghệ hiện đại trong khâu sơ chế, chế biến để nâng cao năng suất. DN tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất còn hạn chế.

Chương trình Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giúp nông dân đưa cơ giới hóa từ khâu làm đất đến thu hoạch đạt 100%
- PV: Để tiếp tục duy trì các kết quả đã đạt cũng như khắc phục những tồn tại, khó khăn trong thực hiện Chương trình Phát triển NNƯDCNC, thời gian tới, ngành NN đề ra phương hướng như thế nào, thưa bà?
Bà Đinh Thị Phương Khanh: Trên cây lúa, tiếp tục duy trì các mô hình điểm, mô hình đã triển khai thực hiện giai đoạn 2016-2020 và triển khai nhân rộng trong năm 2025. Thực hiện tốt Đề án Phát triển bền vững 1 triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh.
Cây rau tiếp tục duy trì 3 mô hình nhân rộng ƯDCNC tại Cần Giuộc; củng cố, duy trì diện tích rau ƯDCNC 2.000ha tại các địa phương: Cần Đước, Cần Giuộc, Đức Hòa và Tân An (trước hợp nhất).
Cây thanh long tiếp tục hỗ trợ các mô hình điểm sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn GAP tại Châu Thành. Thực hiện công tác quản lý và kiểm soát đối với chỉ dẫn địa lý “Châu Thành Long An” cho quả thanh long của tỉnh.
Cây chanh tiếp tục duy trì 2 mô hình điểm ứng dụng kỹ thuật cải tạo vườn chanh, nâng cao sản lượng và chất lượng tại Bến Lức, Đức Huệ. Thực hiện công tác quản lý và kiểm soát đối với chỉ dẫn địa lý “Bến Lức Long An” cho quả chanh không hạt. Tổ chức 10 lớp tập huấn nhân rộng mô hình.
Con tôm tiếp tục triển khai thực hiện 1,16ha tôm ƯDCNC. Hỗ trợ xây dựng 5 mô hình nhân rộng về nuôi tôm ƯDCNC tại Tân Trụ và Cần Đước.
Con bò thịt tiếp tục thực hiện hỗ trợ chuyển đổi giống 15 con bò cái sinh sản chất lượng cao cho hộ chăn nuôi ở Đức Huệ; hỗ trợ gieo tinh nhân tạo khoảng 1.810 bò cái sinh sản trên địa bàn Đức Huệ và Tân Trụ, hỗ trợ bình ni-tơ cho dẫn tinh viên, vắc-xin phòng bệnh tụ huyết trùng và viêm da nổi cục cho hộ chăn nuôi ở Thủ Thừa.
Ngoài ra, hỗ trợ HTX, DN ƯDCNC vào sản xuất: Xây dựng DN NN được công nhận DN NNƯDCNC (nếu có DN đề nghị). Xây dựng 1-2 chuỗi cung ứng thực phẩm nông sản an toàn gắn với truy xuất nguồn gốc trên sản phẩm gạo, rau, thanh long, chanh và bò thịt.
Tiếp tục hỗ trợ các cơ sở sản xuất nông sản trong tỉnh áp dụng và chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Tập trung thực hiện các nội dung chuyển đổi số trên 4 loại cây trồng và 2 con vật nuôi theo kế hoạch đã được phê duyệt.

Thông qua Chương trình Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nhiều nông sản chủ lực của tỉnh ngày càng khẳng định thương hiệu trên thị trường
- PV: Để NNƯDCNC tiếp tục phát triển, hướng đến xây dựng nền NN xanh, hiện đại và bền vững, bà cho biết ngành NN tỉnh có những giải pháp nào?
Bà Đinh Thị Phương Khanh: Để thực hiện hiệu quả hơn Chương trình trong thời gian tới, ngành NN đề xuất một số giải pháp sau:
Tập trung đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức, hiểu biết của đảng viên, công chức, viên chức và người lao động về sản xuất NNƯDCNC, NN hữu cơ; những yêu cầu của thị trường đối với nông sản chủ lực. Tuyên truyền cơ hội cũng như thách thức khi Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng; vai trò và lợi ích khi tham gia tổ hợp tác, HTX để bảo đảm phát triển NN bền vững.
Thực hiện công tác quy hoạch, tổ chức lại sản xuất: Rà soát, điều chỉnh, bổ sung định hướng phát triển ngành để tích hợp vào quy hoạch chung của tỉnh. Trong đó, chú trọng quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung để đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh; ứng dụng đồng bộ cơ giới hóa, khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và vận chuyển hàng hóa; tập trung thực hiện liên kết sản xuất - tiêu thụ, xây dựng, phát triển các chuỗi giá trị trên các sản phẩm chủ lực; thực hiện truy xuất nguồn gốc gắn với mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói.
Rà soát, đánh giá tình hình hoạt động của các tổ hợp tác, HTX trong lĩnh vực NN, có giải pháp kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; có cơ chế hỗ trợ các tổ hợp tác, HTX hoạt động hiệu quả. Hỗ trợ, hướng dẫn xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu cho sản phẩm nông sản của tỉnh; hỗ trợ vốn cho các HTX và nông dân để ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất.
Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển NNƯDCNC: Tập trung đào tạo nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ công chức, viên chức của ngành; tổ chức tập huấn nhằm nâng cao năng lực, nhận thức cho cán bộ, công chức các tổ chức chính trị - xã hội về kinh tế tập thể. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý HTX, tổ hợp tác.
Tăng cường hoạt động liên kết, hợp tác với DN trong việc phối hợp thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của DN. Xác lập cơ chế phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa hoạt động sản xuất NN, khoa học, công nghệ với xúc tiến thương mại từ tỉnh đến cơ sở. Tăng cường công tác đối ngoại với các địa phương trong và ngoài nước để liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản công nghệ cao của tỉnh.
Chuyển đổi số ngành NN và kết nối thương mại điện tử, quảng bá thương hiệu cho các sản phẩm đặc trưng.
Tham mưu, đề xuất ban hành chính sách hỗ trợ ứng dụng khoa học - kỹ thuật, xây dựng các mô hình để người dân có điều kiện tiếp cận và mạnh dạn ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
- PV: Xin cảm ơn bà!./.
Lê Ngọc
Nguồn: https://baolongan.vn/nong-nghiep-ung-dung-cong-nghe-cao-vung-tin-buoc-vao-giai-doan-moi-a208379.html






Bình luận (0)