Dư nợ tín dụng xanh đạt khoảng 750.000 tỷ đồng
Theo Bộ Tài chính, nhu cầu nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia, phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 là rất lớn. Dự kiến, đến 2050, tổng nhu cầu đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế bền vững vào khoảng 600 - 700 tỷ USD, trong đó nhu cầu vốn cho thích ứng với biến đổi khí hậu khoảng 368 tỷ USD (tương đương 6,8% GDP/năm). Muốn vậy, bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, cần phát triển trái phiếu xanh, tín dụng xanh, thị trường carbon và các nguồn huy động quốc tế.
Tính đến 30/11/2025, dư nợ tín dụng xanh đạt khoảng 750.000 tỷ đồng, tăng bình quân hơn 21%/năm trong giai đoạn 2017 - 9/2025, cao hơn mức tăng trưởng dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế. Dù vậy, nguồn vốn từ ngân hàng là không đủ. “Cần đa dạng hóa nguồn lực tài chính, đòi hỏi sự tham gia của các kênh vốn trong và ngoài nước, đặc biệt từ khu vực tư nhân và thị trường vốn (ở đây là thị trường chứng khoán), hợp lực cùng hệ thống ngân hàng để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi xanh và phát triển bền vững của đất nước”, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Ngọc Cảnh nói tại hội thảo “Đa dạng vốn cho phát triển bền vững” do Báo Tài chính - Đầu tư tổ chức mới đây.

Dự kiến đến 2050, cần 600 - 700 tỷ USD cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế bền vững. Ảnh: Vietnam+
Cũng trong sự kiện này, Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam Nguyễn Bá Hùng cho biết, theo dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XIV, giai đoạn 2026 - 2030, mục tiêu đầu tư công khoảng 8% GDP, tức cần huy động tăng thêm 50 - 70 tỷ USD; đầu tư toàn xã hội tăng 40% GDP, tương đương cần thêm 250 - 350 tỷ USD trong 5 năm tới so với giai đoạn vừa qua. Để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 10% trong năm tới, Việt Nam cũng cần nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển.
Phát triển đồng bộ các thị trường tài chính
Ông Hùng phân tích, để huy động nguồn vốn này, cùng với kênh vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng, Việt Nam có thể huy động vốn qua kênh trái phiếu Chính phủ. Dư nợ trái phiếu Chính phủ/GDP của Việt Nam xấp xỉ 20%, ở ngưỡng rất thấp so với các nước trong khu vực. Điều này cho thấy độ an toàn tương đối cao, có dư địa để tăng cường. Tương tự, với nợ công của Chính phủ, nợ trong nước tương đối ổn định, trong khi nợ nước ngoài giảm tương đối nhanh trong 5 năm qua cho thấy tài chính công vẫn ở ngưỡng an toàn và còn nhiều dư địa để huy động vốn từ bên ngoài.
Mặt khác, khi nhìn vào thị trường trái phiếu, Việt Nam nằm trong nhóm nước ở khu vực có tỷ trọng trái phiếu doanh nghiệp tương đối thấp so với tổng dư nợ trái phiếu của cả thị trường. Đáng chú ý, liên quan thị trường trái phiếu thứ cấp, hiện Việt Nam gần như không có giao dịch của trái phiếu doanh nghiệp, tức thanh khoản gần như không có. Chưa kể, nhà đầu tư nước ngoài sở hữu trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam “gần như bằng 0”, trong khi ở các nước có thể lên tới 20%. Nhà đầu tư nước ngoài mua trái phiếu Chính phủ bằng tiền nội tệ đã được nhiều nước áp dụng, song ở Việt Nam thì chưa, trong khi “đây là kênh rất quan trọng mà Việt Nam cần phát triển”, ông Hùng nhấn mạnh.
Hiện, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam là 130%, trong khi ở các nước mới nổi từ 10 - 90%. Để giảm tỷ lệ này xuống, ông Hùng cho rằng buộc phải trông vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu; trong ngắn hạn, chúng ta có thể quy đổi dư nợ ngân hàng thành trái phiếu khi thị trường trái phiếu phát triển tốt.
Về huy động vốn qua thị trường chứng khoán, trong khi trên thế giới, vốn hóa thị trường xấp xỉ 130% GDP, các nền kinh tế đang phát triển khoảng 50% GDP thì Việt Nam ổn định quanh mức 40% GDP, tức có tiềm năng huy động vốn nhiều hơn từ thị trường này.
Phân tích như vậy, ông Hùng nêu rõ, Việt Nam có những hạn chế song cũng có rất nhiều dư địa để huy động vốn và việc khai thác dư địa đó “không phải là quá khó”.
Dẫn dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế, Kinh tế trưởng ADB cho biết, nếu Việt Nam thực hiện tốt các biện pháp cải cách thì đến 2030 sẽ tăng thêm hơn 2% tăng trưởng GDP. Quan trọng hơn, nếu cải cách tốt thị trường vốn dài hạn sẽ đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng.
Ông Hùng gợi ý, đối với khu vực công, nên cải cách thị trường trái phiếu Chính phủ, đặc biệt là tập trung vào nâng hạng tín dụng (hiện ở mức BB+ là mức trái phiếu rủi ro cao, nếu lên hạng Investment Grade - trái phiếu đầu tư sẽ vừa giảm chi phí vốn vừa hỗ trợ tiếp cận thị trường vốn tốt hơn). Cùng với đó, cần nâng cao hiệu quả lựa chọn và thực hiện đầu tư công; phát triển các công cụ tài chính mới theo mô hình kết hợp giữa tài chính công và tài chính tư nhân. Ngoài ra, việc tăng cường tiếp cận thị trường vốn quốc tế cũng góp phần quan trọng để đa dạng hóa nguồn lực cho phát triển.
Đối với khu vực tư nhân, cần phát triển đồng bộ các thị trường tài chính trong nước, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường nợ, thị trường chứng khoán; đồng thời phát triển đầy đủ hệ sinh thái các dịch vụ tài chính ngân hàng, đầu tư, môi giới, tư vấn. Thực tế, theo ông Hùng, Việt Nam chủ yếu vẫn dựa vào hệ thống ngân hàng thương mại trong hoạt động huy động và cho vay, trong khi chưa có ngân hàng đầu tư, vai trò của các định chế có chức năng quản lý dòng vốn dài hạn và kết nối với các dự án chất lượng vẫn còn khá mờ nhạt.
Song song, cần kết nối thị trường tài chính quốc tế để huy động vốn quy mô lớn, nâng cao hiệu quả dịch vụ. Việc thành lập trung tâm tài chính quốc tế là công cụ quan trọng để thực hiện kết nối này, ông Hùng nhìn nhận.
Phó Vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính, Bộ Tài chính Phạm Thị Thanh Tâm bổ sung, nhu cầu và tiềm năng phát triển thị trường trái phiếu của Việt Nam là rất lớn trong giai đoạn 2026 - 2030. Tuy nhiên, sự thiếu vắng nhà đầu tư tổ chức có tiềm lực tài chính mạnh, có nguồn vốn dài hạn để tham gia đầu tư làm ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn. Nhìn lại thị trường trái phiếu Chính phủ hiện mới đạt trên 60% kế hoạch năm 2025 có một phần bởi nguyên nhân này.
Mặt khác, nhà đầu tư nước ngoài chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trên thị trường trái phiếu Chính phủ, do thiếu các công cụ phòng ngừa rủi ro phù hợp cho tỷ giá và lãi suất và lãi suất trái phiếu Chính phủ Việt Nam tương đối thấp so với khu vực.
“Để thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu nói chung và trái phiếu xanh nói riêng, yêu cầu đầu tiên và then chốt là phải phát triển cơ sở nhà đầu tư. Bộ Tài chính đang phối hợp chặt chẽ các bộ ngành để triển khai thực hiện. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ tối quan trọng, đòi hỏi sự đồng bộ của các bộ, ngành có liên quan, không chỉ là trách nhiệm của Bộ Tài chính”, bà Tâm chia sẻ.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/phat-trien-nha-dau-tu-la-nhiem-vu-toi-quan-trong-10400781.html






Bình luận (0)