Nhận thức về vai trò của thể chế với phát triển khoa học công nghệ được nâng tầm
Nghị quyết 57 ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã đề ra quan điểm phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới; đồng thời, xác định thể chế là điều kiện tiên quyết cần hoàn thiện và đi trước một bước.
Có thể khẳng định, nhận thức về vai trò của thể chế đối với phát triển đã được nâng tầm trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngay sau khi ban hành Nghị quyết 57. Nhận thức ấy đã chuyển thành cuộc cách mạng trong xây dựng thể chế kiến tạo.
Thống kê của Ban Chỉ đạo Trung ương cho thấy, trong 9 tháng đầu năm 2025, Quốc hội và các cơ quan đã hoàn thành một khối lượng khổng lồ các công việc với 17 luật được ban hành, trong đó có những luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng như: Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân… Cùng với đó là 4 Nghị quyết thí điểm cơ chế đặc thù, 56 nghị định của Chính phủ, 60 thông tư và hơn 700 văn bản ở các cấp địa phương được ban hành để khơi thông các điểm nghẽn và nguồn lực.
Những số liệu này minh chứng cho quyết tâm chính trị cao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan trong việc kiến tạo hành lang pháp lý cho kỷ nguyên số và kinh tế tri thức.
Những điểm nghẽn thể chế vẫn hiện hữu trong lĩnh vực khoa học công nghệ
Dù vậy, với tinh thần xây dựng, chúng ta cũng nhìn nhận thẳng thắn những điểm nghẽn thể chế còn hiện hữu trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Thứ nhất, điểm nghẽn thể hiện ở tư duy quản lý tài chính. Mặc dù trên cơ sở chủ trương Nghị quyết 57, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 193, sau đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 88, các địa phương cũng đã ban hành một số cơ chế chính sách, nhưng thực sự tài chính cho khoa học, công nghệ vẫn đang "trói chân" sự sáng tạo.
Chúng ta vẫn đang quản lý trong hoạt động nghiên cứu với tư duy hành chính, với các chứng từ hóa đơn. Có lẽ đằng sau tư duy hành chính ấy là sự thiếu niềm tin hoặc tâm lý sợ trách nhiệm, cầu toàn của cơ quan quản lý. Điều này khiến nhà khoa học mất rất nhiều thời gian để giải trình các hồ sơ chứng từ hơn là tập trung cho nghiên cứu, ảnh hưởng đến sự đột phá trong hoạt động nghiên cứu.
Qua thống kê sơ bộ trong nghiên cứu của Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cho thấy, đến tháng 8/2025, chi ngân sách cho khoa học, công nghệ hiện nay giải ngân của toàn quốc trung bình đạt 60% kế hoạch được giao. Trong đó, nhiều địa phương là đầu tàu lớn, đóng vai trò rất quan trọng như Hà Nội mới giải ngân được 18%, Cần Thơ mới đạt khoảng 30%.
Hiện nay, cả nước có 36 Quỹ phát triển khoa học công nghệ tại địa phương nhưng chỉ có 14/36 quỹ có giải ngân. Tổng toàn bộ vốn cấp cho 36 quỹ này chỉ đạt 856,495 tỷ đồng, nghĩa là bằng khoảng 5 km đường cao tốc với suất đầu tư hiện nay. Và giải ngân cho đến tháng 4/2025 thì giải ngân rất thấp, trong đó giải ngân tổng các Quỹ mới đạt 398 tỷ đồng trong tổng số 14/36 Quỹ có giải ngân. Rất nhiều địa phương đóng vai trò quan trọng nhưng tỷ lệ giải ngân là 0 đồng. Những động lực công nghệ rất quan trọng thể hiện trong mô hình thúc đẩy khoa học công nghệ của địa phương thì tỷ lệ giải ngân cũng rất thấp hoặc bằng 0.
Như vậy, câu chuyện đặt ra là tại sao về mặt chủ trương và các nghị quyết thí điểm đã được ban hành nhưng việc triển khai Quỹ khoa học công nghệ để tạo đòn bẩy cho khoa công nghệ địa phương lại chậm như vậy? Đây là vấn đề đặt ra, yêu cầu phải tổng rà soát sự đồng bộ trong việc triển khai các Nghị quyết, Nghị định để giải quyết câu chuyện này và trúng những điểm nghẽn trong vận hành các mô hình rất quan trọng.
Nghị quyết 57 và Nghị quyết của Quốc hội đã chỉ ra 2 vấn đề rất quan trọng, trong đó, khoa học phải chấp nhận rủi ro – đã được thể chế hóa nhưng hiện nay các địa phương triển khai rất dè dặt. Lý do là vì phải đòi hỏi sự đồng bộ từ cơ chế, chính sách, pháp luật với các quy định về kiểm tra và tính chịu trách nhiệm.
Nếu sau này xảy ra rủi ro mà vẫn tiến hành kiểm tra, xử lý như hiện nay thì các sở, các hội đồng cũng rất e dè. Do đó, việc này phải thực hiện rất đồng bộ từ các quy định chung trong xử lý, đồng bộ của Đảng đến vận hành của Nhà nước thì người làm khoa học, người quản lý khoa học mới tự tin cho việc chấp nhận rủi ro trong quyết định bởi không thể đảm đương tất cả các nhiệm vụ khoa học thành công được.
Thứ hai là thương mại hóa tài sản trí tuệ và chuyển giao công nghệ còn gặp nhiều khó khăn từ góc độ thể chế. Chúng ta đã trăn trở nhiều năm về tình trạng nhiều kết quả nghiên cứu khoa học từ ngân sách nhà nước phải cất trong ngăn kéo. Các nguyên nhân có thể là do vướng về các quy định định giá tài sản công, quy trình xác định quyền sở trí tuệ phức tạp, thiếu quy định để thúc đẩy việc cấp tín dụng cho doanh nghiệp dựa trên quyền sở trí tuệ.
Thứ ba, còn khoảng trống pháp lý đối với các công nghệ mới, các vấn đề mới, mô hình mới. Trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và các công nghệ số, doanh nghiệp Việt muốn phát triển nhưng còn thận trọng vì thiếu các quyết định cụ thể, trong đó quy định về đạo đức AI, cơ chế giám sát hệ thống AI rủi ro.
Việc ban hành các cơ chế chính sách thử nghiệm có kiểm soát đã được đề cập nhiều kể từ Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị ngày 27/5/2019 đến Nghị quyết 41, Nghị quyết 68 gần đây nhưng nhìn chung còn chậm.
Cần hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, thể chế là chìa khóa quan trọng cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Vì vậy cần hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý có ý nghĩa then chốt để thực hiện cấp vốn trên quyền sở trí tuệ, các quy định rõ ràng về quyền sở hữu đăng ký thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Từ kinh nghiệm quốc tế và qua thực tiễn, tôi đề xuất một số giải pháp sau đây.
Một là, cần tiếp tục đổi mới sâu sắc tư duy xây dựng pháp luật, chuyển mạnh từ tư duy quản lý, kiểm soát sang tư duy kiến tạo phát triển. Đối với lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, cách tiếp cận lập pháp cần tiếp tục theo hướng đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, cần khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ cho khoa học công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Các luật nền tảng như đất đai, ngân sách nhà nước, luật đầu tư công, doanh nghiệp cần được rà soát, sửa đổi theo hướng thông thoáng, cắt giảm thủ tục tạo điều kiện cho các dự án AI và doanh nghiệp công nghệ phát triển.
Các nghị định, thông tư để hướng dẫn triển khai các luật chuyên ngành mới ban hành phải được thiết kế thống nhất, đồng bộ, tránh trồng chéo và tạo sự chủ động.
Ba là, thể chế sở hữu trí tuệ phải được nâng cấp toàn diện để trở thành nền tảng của kinh tế tri thức.
Bốn là, giải quyết các điểm nghẽn, nút thắt về nguồn lực tài chính cần được giải quyết bằng cơ chế huy động và phân bổ nguồn lực tài chính một cách quyết liệt, thực chất và hiệu quả. Điều này đòi hỏi triển khai đồng bộ các ưu đãi về thuế, tín dụng cho AI và khởi nghiệp sáng tạo. Đặc biệt, cần phải thay đổi căn bản các cơ chế chính sách pháp luật, chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Cuối cùng, thể chế chỉ được phát huy khi được vận hành bởi bộ máy tổ chức thực thi hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm. Cần triển khai hệ thống giám sát đánh giá dựa trên cơ sở dữ liệu và KPI, cập nhật thời gian thực để xử lý vướng mắc. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và lấy thước đo hiệu quả sự hài lòng của doanh nghiệp, người dân là thước đo đánh giá.
Việc thực hiện đồng bộ các nội dung trên sẽ tạo ra cú hích để thể chế mạnh mẽ, tháo gỡ rào cản cố hữu, giải phóng tiềm năng sáng tạo của quốc gia.
Nguồn: https://daibieunhandan.vn/pho-truong-ban-chinh-sach-chien-luoc-trung-uong-nguyen-duc-hien-chuyen-manh-tu-tu-duy-quan-ly-kiem-soat-sang-tu-duy-kien-tao-phat-trien-10396671.html






Bình luận (0)